Nghiên cứu xử lý phụ phẩm nông nghiệp thành phần hữu cơ sử dụng chế phẩm vi sinh tại xã Phúc thuận – Phổ Yên – Thái Nguyên
Số trang: 8
Loại file: pdf
Dung lượng: 438.21 KB
Lượt xem: 18
Lượt tải: 0
Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:
Thông tin tài liệu:
Việc sử dụng phụ phẩm nông nghiệp làm phân compost là giải pháp tối ưu hiện nay vì vừa giảm thiểu chất thải lại vừa tận dụng để làm phân hữu cơ.Đề tài này đã tiến hành các thí nghiệm ủ phụ gia nông nghiệp bằng chế phẩm sinh học được lựa chọn là Anvi-Tricho và bằng các hỗn hợp khác như men rượu, tro và nước để làm mẫu đối chứng.
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Nghiên cứu xử lý phụ phẩm nông nghiệp thành phần hữu cơ sử dụng chế phẩm vi sinh tại xã Phúc thuận – Phổ Yên – Thái Nguyên Quản lý Tài nguyên rừng & Môi trường NGHIÊN CỨU XỬ LÝ PHỤ PHẨM NÔNG NGHIỆP THÀNH PHẦN HỮU CƠ SỬ DỤNG CHẾ PHẨM VI SINH TẠI XÃ PHÚC THUẬN – PHỔ YÊN – THÁI NGUYÊN Lê Phú Tuấn1, Vũ Thị Kim Oanh2, Nguyễn Thị Thu Phương3 1,2,3 Trường Đại học Lâm nghiệp TÓM TẮT Hiện nay, vấn đề ô nhiễm ở vùng nông thôn đang mức đáng báo động, không chỉ từ việc sử dụng tràn lan thuốc bảo vệ thực vât, phân bón hóa học, mà còn một phần đóng góp không nhỏ từ việc sử dụng phụ phẩm nông nghiệp chưa hợp lý. Sau mùa thu hoạch, hầu hết phụ phẩm từ rơm, rạ, rể cây, thân cây… được người dân phơi khô rồi đốt hoặc vứt ra đường, ra bờ ao, sông, suối gây ô nhiễm môi trường và tắt dòng chảy. Trên phương diện tầm nhìn môi trường thì phụ phẩm nông nghiệp là một nguồn tài nguyên.Việc sử dụng phụ phẩm nông nghiệp làm phân compost là giải pháp tối ưu hiện nay vì vừa giảm thiểu chất thải lại vừa tận dụng để làm phân hữu cơ.Đề tài này đã tiến hành các thí nghiệm ủ phụ gia nông nghiệp bằng chế phẩm sinh học được lựa chọn là Anvi-Tricho và bằng các hỗn hợp khác như men rượu, tro và nước để làm mẫu đối chứng. Kết quả thí nghiệm cho thấy rằng các thành phần dinh dưỡng như N, P, K trong mẫu sử dụng Anvi-Tricho cao hơn các mẫu đối chứng, đặc biệt sau 28 ngày, thì mẫu ủ bằng Anvi-Tricho trở nên tơi xốp, màu đen xám và sẵn sàng cho việc mang đi bón cây. Đề tài cũng đề xuất có thể thêm phân chuồng vào thành phần nguyên liệu ủ để tăng chất lượng phân hữu cơ sau này. Từ khóa: Anvi-Tricho, compost, phân hữu cơ, phụ phẩm nông nghiệp, ủ. I. ĐẶT VẤN ĐỀ Việt Nam đang trong giai đoạn công nghiệp hóa – hiện đại hóa với một số ngành kinh tế chủ lực trong đó có ngành nông nghiệp. Mặc dù, nhiều diện tích đất nông nghiệp được chuyển đổi mục đích sử dụng cho ngành công nghiệp. Số lượng các khu công nghiệp vừa và nhỏ tăng lên, chiếm dần diện tích đất nông nghiệp. Tuy nhiên, sản lượng nông nghiệp không ngừng tăng lên dù diện tích đất đang ngày càng bị thu hẹp. Theo thống kê của Bộ Nông nghiệp và phát triển Nông thôn: sản lượng lúa năm 2011 đạt mức 40,78 triệu tấn; năm 2012 tăng gấp 1,2% so với năm 2011 đạt 43 triệu tấn; năm 2014 sản lượng lúa cả nước đạt 44,83 triệu tấn; tăng 80,4 vạn tấn so với năm 2013. Nguyên nhân do các ngành nông nghiệp là một ngành sản xuất nguồn lương thực và thực phẩm chủ yếu cung cấp cho cả nước và xuất khẩu, đóng góp không nhỏ vào GDP. Là một nước nông nghiệp, hằng năm lượng phế thải dư thừa trong quá trình chế biến các sản phẩm nông sản, thực phẩm rất lớn và đang dạng về chủng loại. Đó cũng là những nỗi lo về bãi chứa, đe dọa ô nhiễm môi trường những địa phương có thế mạnh về sản xuất nông nghiệp. Mặc dù nông nghiệp được cơ giới hóa, được chú trọng nhưng nó để lại không ít hệ quả ảnh hưởng tới môi trường. Trước kia, khi chưa được cơ giới hóa trong nông nghiệp, các phế phẩm nông nghiệp như rơm rạ, bẹ ngô… được tái sử dụng. Bẹ ngô được sử dụng làm chất đốt trong gia đình, rơm rạ vừa được sử dụng làm chất đốt vừa được sử dụng làm thức ăn trong chăn nuôi đồng thời cũng được dùng làm nguyên liệu ủ phân hữu cơ… Ngày nay, đời sống con người càng được nâng cao, các sản phẩm cung cấp cho nông nghiệp ngày càng nhiều. Con người không chú trọng đến việc tái sử dụng những phế phẩm nông nghiệp, vì thế những phế phẩm này thường bị bỏ lại ngay tại đồng ruộng sau khi thu hoạch, thậm chí đốt ngay tại ruộng đồng gây hậu quả nghiêm trọng tới môi trường đất, môi trường nước, môi trường không khí và ảnh hưởng đến các vấn đề nhân sinh xã hội khác. Ví dụ trong mùa thu hoạch lúa, bà con sử dụng TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ LÂM NGHIỆP SỐ 6-2016 101 Quản lý Tài nguyên rừng & Môi trường máy gặt lúa trên đồng ruộng và sau đó chỉ mang thóc về. Các sản phẩm dư thừa như rơm và rạ, bà con bỏ lại và sau một thời gian sẽ đốt bỏ. Nhiều khi, cùng đốt rơm rạ một lúc, hiện tượng khói lan tỏa khắp nơi vừa ảnh hưởng đến môi trường, vừa ảnh hưởng tới sức khỏe con người và thậm chí gây mất an toàn giao thông. Xã Phúc Thuận, thị xã Phổ Yên, tỉnh Thái Nguyên là một xã thuần nông, nhưng năm gần đây với sự quan tâm của Đảng và Nhà nước, tình hình kinh tế – xã hội ngày càng phát triển. Với việc áp dụng giống mới, các quy trình thâm canh cao đã góp phần nâng cao năng suất cây trồng, cùng với đố lượng phát thải tàn dư nông nghiệp ngày càng tăng. Tất cả nguồn phế thải này một phần bị đốt, một phần còn lại gây ô nhiễm nghiêm trọng tới môi trường đất và môi trường nước, trong khi đó đất đai lại thiếu nghiêm trọng nguồn dinh dưỡng cho cây. Vì vậy, xử lý tàn dư thực vật trên đồng ruộng không chỉ làm sạch môi trường đồng ruộng, tiêu diệt ổ bệnh dịch hại cây trồng mà còn có ý nghĩa rất lớn trong việc tạo nguồn phân hữu cơ tại chỗ trả lại cho đất, giải quyết sự thiếu hụt về phân hữu cơ trong thâm canh hiện nay, đồng thời giảm bớt chi phí về phân bón, thuốc trừ sâu góp phần tăng thu nhập cho người nông dân. Do tính chất và mức độ quan trọng như vậy nên chúng tôi đã thực hiện nghiên cứu xử lý phụ phẩm nông nghiệp thành phân hữu cơ sử dụng chế phẩm vi sinh tại xã Phúc Thuận Phổ Yên - Thái Nguyên, để nâng cao việc sử dụng tài nguyên và nguyên liệu có sẵn nhằm giảm thiểu tác động đến môi trường và giảm chi phí sản xuất cho người nông dân. II. NGUYÊN VẬT LIỆU, PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 2.1. Nguyên vật liệu 2.1.1. Dụng cụ - 4 thùng xốp có kích thước 600 x 450 x 375 mm vàcó nắp đậy. - 1 thùng nhựa có dung tích 300 lít để pha chế phẩm. 102 - Túi nilon để ủ. 2.1.2. Nguyên liệu ủ - Rơm rạ, thân ngô sau khi thu hoạch. 2.1.3. Chế phẩm Cho 1 kg Anvi Tricho vào thùng nhựa, sau đó bổ sung nước sạch đến thể tích 200 lít, sau đó khuấy đều. 2.2. Phương pháp nghiên cứu 2.2.3. Phương pháp ủ Bước 1: chuẩn bị nguyên liệu Rơm rạ, thân ngô sau khi thu hoạch sẽ được băm nhỏ đến kích thước dưới 5 cm, sau đó đem phơi khô và tách bỏ các thành phần vô cơ như sỏi, đá, nilon. Trộn đều hỗn hợp rơm rạ, thân ngô và cân 30 kg để làm thí nghiệm. Bước 2: Ủ Ti ...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Nghiên cứu xử lý phụ phẩm nông nghiệp thành phần hữu cơ sử dụng chế phẩm vi sinh tại xã Phúc thuận – Phổ Yên – Thái Nguyên Quản lý Tài nguyên rừng & Môi trường NGHIÊN CỨU XỬ LÝ PHỤ PHẨM NÔNG NGHIỆP THÀNH PHẦN HỮU CƠ SỬ DỤNG CHẾ PHẨM VI SINH TẠI XÃ PHÚC THUẬN – PHỔ YÊN – THÁI NGUYÊN Lê Phú Tuấn1, Vũ Thị Kim Oanh2, Nguyễn Thị Thu Phương3 1,2,3 Trường Đại học Lâm nghiệp TÓM TẮT Hiện nay, vấn đề ô nhiễm ở vùng nông thôn đang mức đáng báo động, không chỉ từ việc sử dụng tràn lan thuốc bảo vệ thực vât, phân bón hóa học, mà còn một phần đóng góp không nhỏ từ việc sử dụng phụ phẩm nông nghiệp chưa hợp lý. Sau mùa thu hoạch, hầu hết phụ phẩm từ rơm, rạ, rể cây, thân cây… được người dân phơi khô rồi đốt hoặc vứt ra đường, ra bờ ao, sông, suối gây ô nhiễm môi trường và tắt dòng chảy. Trên phương diện tầm nhìn môi trường thì phụ phẩm nông nghiệp là một nguồn tài nguyên.Việc sử dụng phụ phẩm nông nghiệp làm phân compost là giải pháp tối ưu hiện nay vì vừa giảm thiểu chất thải lại vừa tận dụng để làm phân hữu cơ.Đề tài này đã tiến hành các thí nghiệm ủ phụ gia nông nghiệp bằng chế phẩm sinh học được lựa chọn là Anvi-Tricho và bằng các hỗn hợp khác như men rượu, tro và nước để làm mẫu đối chứng. Kết quả thí nghiệm cho thấy rằng các thành phần dinh dưỡng như N, P, K trong mẫu sử dụng Anvi-Tricho cao hơn các mẫu đối chứng, đặc biệt sau 28 ngày, thì mẫu ủ bằng Anvi-Tricho trở nên tơi xốp, màu đen xám và sẵn sàng cho việc mang đi bón cây. Đề tài cũng đề xuất có thể thêm phân chuồng vào thành phần nguyên liệu ủ để tăng chất lượng phân hữu cơ sau này. Từ khóa: Anvi-Tricho, compost, phân hữu cơ, phụ phẩm nông nghiệp, ủ. I. ĐẶT VẤN ĐỀ Việt Nam đang trong giai đoạn công nghiệp hóa – hiện đại hóa với một số ngành kinh tế chủ lực trong đó có ngành nông nghiệp. Mặc dù, nhiều diện tích đất nông nghiệp được chuyển đổi mục đích sử dụng cho ngành công nghiệp. Số lượng các khu công nghiệp vừa và nhỏ tăng lên, chiếm dần diện tích đất nông nghiệp. Tuy nhiên, sản lượng nông nghiệp không ngừng tăng lên dù diện tích đất đang ngày càng bị thu hẹp. Theo thống kê của Bộ Nông nghiệp và phát triển Nông thôn: sản lượng lúa năm 2011 đạt mức 40,78 triệu tấn; năm 2012 tăng gấp 1,2% so với năm 2011 đạt 43 triệu tấn; năm 2014 sản lượng lúa cả nước đạt 44,83 triệu tấn; tăng 80,4 vạn tấn so với năm 2013. Nguyên nhân do các ngành nông nghiệp là một ngành sản xuất nguồn lương thực và thực phẩm chủ yếu cung cấp cho cả nước và xuất khẩu, đóng góp không nhỏ vào GDP. Là một nước nông nghiệp, hằng năm lượng phế thải dư thừa trong quá trình chế biến các sản phẩm nông sản, thực phẩm rất lớn và đang dạng về chủng loại. Đó cũng là những nỗi lo về bãi chứa, đe dọa ô nhiễm môi trường những địa phương có thế mạnh về sản xuất nông nghiệp. Mặc dù nông nghiệp được cơ giới hóa, được chú trọng nhưng nó để lại không ít hệ quả ảnh hưởng tới môi trường. Trước kia, khi chưa được cơ giới hóa trong nông nghiệp, các phế phẩm nông nghiệp như rơm rạ, bẹ ngô… được tái sử dụng. Bẹ ngô được sử dụng làm chất đốt trong gia đình, rơm rạ vừa được sử dụng làm chất đốt vừa được sử dụng làm thức ăn trong chăn nuôi đồng thời cũng được dùng làm nguyên liệu ủ phân hữu cơ… Ngày nay, đời sống con người càng được nâng cao, các sản phẩm cung cấp cho nông nghiệp ngày càng nhiều. Con người không chú trọng đến việc tái sử dụng những phế phẩm nông nghiệp, vì thế những phế phẩm này thường bị bỏ lại ngay tại đồng ruộng sau khi thu hoạch, thậm chí đốt ngay tại ruộng đồng gây hậu quả nghiêm trọng tới môi trường đất, môi trường nước, môi trường không khí và ảnh hưởng đến các vấn đề nhân sinh xã hội khác. Ví dụ trong mùa thu hoạch lúa, bà con sử dụng TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ LÂM NGHIỆP SỐ 6-2016 101 Quản lý Tài nguyên rừng & Môi trường máy gặt lúa trên đồng ruộng và sau đó chỉ mang thóc về. Các sản phẩm dư thừa như rơm và rạ, bà con bỏ lại và sau một thời gian sẽ đốt bỏ. Nhiều khi, cùng đốt rơm rạ một lúc, hiện tượng khói lan tỏa khắp nơi vừa ảnh hưởng đến môi trường, vừa ảnh hưởng tới sức khỏe con người và thậm chí gây mất an toàn giao thông. Xã Phúc Thuận, thị xã Phổ Yên, tỉnh Thái Nguyên là một xã thuần nông, nhưng năm gần đây với sự quan tâm của Đảng và Nhà nước, tình hình kinh tế – xã hội ngày càng phát triển. Với việc áp dụng giống mới, các quy trình thâm canh cao đã góp phần nâng cao năng suất cây trồng, cùng với đố lượng phát thải tàn dư nông nghiệp ngày càng tăng. Tất cả nguồn phế thải này một phần bị đốt, một phần còn lại gây ô nhiễm nghiêm trọng tới môi trường đất và môi trường nước, trong khi đó đất đai lại thiếu nghiêm trọng nguồn dinh dưỡng cho cây. Vì vậy, xử lý tàn dư thực vật trên đồng ruộng không chỉ làm sạch môi trường đồng ruộng, tiêu diệt ổ bệnh dịch hại cây trồng mà còn có ý nghĩa rất lớn trong việc tạo nguồn phân hữu cơ tại chỗ trả lại cho đất, giải quyết sự thiếu hụt về phân hữu cơ trong thâm canh hiện nay, đồng thời giảm bớt chi phí về phân bón, thuốc trừ sâu góp phần tăng thu nhập cho người nông dân. Do tính chất và mức độ quan trọng như vậy nên chúng tôi đã thực hiện nghiên cứu xử lý phụ phẩm nông nghiệp thành phân hữu cơ sử dụng chế phẩm vi sinh tại xã Phúc Thuận Phổ Yên - Thái Nguyên, để nâng cao việc sử dụng tài nguyên và nguyên liệu có sẵn nhằm giảm thiểu tác động đến môi trường và giảm chi phí sản xuất cho người nông dân. II. NGUYÊN VẬT LIỆU, PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 2.1. Nguyên vật liệu 2.1.1. Dụng cụ - 4 thùng xốp có kích thước 600 x 450 x 375 mm vàcó nắp đậy. - 1 thùng nhựa có dung tích 300 lít để pha chế phẩm. 102 - Túi nilon để ủ. 2.1.2. Nguyên liệu ủ - Rơm rạ, thân ngô sau khi thu hoạch. 2.1.3. Chế phẩm Cho 1 kg Anvi Tricho vào thùng nhựa, sau đó bổ sung nước sạch đến thể tích 200 lít, sau đó khuấy đều. 2.2. Phương pháp nghiên cứu 2.2.3. Phương pháp ủ Bước 1: chuẩn bị nguyên liệu Rơm rạ, thân ngô sau khi thu hoạch sẽ được băm nhỏ đến kích thước dưới 5 cm, sau đó đem phơi khô và tách bỏ các thành phần vô cơ như sỏi, đá, nilon. Trộn đều hỗn hợp rơm rạ, thân ngô và cân 30 kg để làm thí nghiệm. Bước 2: Ủ Ti ...
Tìm kiếm theo từ khóa liên quan:
Quản lý Tài nguyên rừng và Môi trường Xử lý phụ phẩm nông nghiệp Thành phân hữu cơ Chế phẩm vi sinh Tỉnh Thái NguyênGợi ý tài liệu liên quan:
-
Phân lập và sàng lọc vi khuẩn có khả năng oxy hóa khí methane gây hiệu ứng nhà kính
10 trang 90 0 0 -
Quyết định số 54/2012/QĐ-UBND
5 trang 83 0 0 -
Một số kết quả ứng dụng chế phẩm vi sinh trong xử lý chất thải nông nghiệp thành phân bón hữu cơ
7 trang 45 0 0 -
Đặc điểm các kiểu thảm thực vật rừng tỉnh Quảng Ninh
10 trang 34 0 0 -
9 trang 33 0 0
-
Đánh giá tiềm năng bảo tồn đa dạng sinh học: Trường hợp nghiên cứu ở vùng đệm Vườn quốc gia Cát Tiên
7 trang 33 0 0 -
Tóm tắt Luận án Tiến sỹ Kinh tế: Phát triển thương mại bền vững trên địa bàn Tỉnh Thái Nguyên
27 trang 32 0 0 -
Nghiên cứu xây dựng bản đồ phân bố rừng theo nguy cơ cháy tại Đắk Lắk
10 trang 32 0 0 -
Thực trạng quản lý rừng tại huyện Định Hoá tỉnh Thái Nguyên
7 trang 31 0 0 -
Ứng dụng công nghệ thông tin trong giám sát, đánh giá chi trả dịch vụ môi trường rừng tỉnh Nghệ An
10 trang 28 0 0