Danh mục

NGHIỆN RƯỢU MẠN TÍNH (Kỳ 2)

Số trang: 5      Loại file: pdf      Dung lượng: 210.58 KB      Lượt xem: 19      Lượt tải: 0    
10.10.2023

Phí tải xuống: miễn phí Tải xuống file đầy đủ (5 trang) 0
Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:

Thông tin tài liệu:

Nghiện rượu mạn tính xảy ra khi dùng rượu dài ngày, dần dần thường xuyên phải tìm rượu, uống rượu. Tuy nhiên không phải mọi trường hợp uống rượu thường xuyên đều có thể coi là nghiện rượu mạn tính.Nghiện rượu mạn tính là một bệnh lý nghiện chất độc, có các triệu chứng cơ bản đặc trưng cho nhóm bệnh này là:- Hội chứng nghiện.- Hội chứng cai rượu. - Sự thay đổi khả năng dung nạp rượu.- Rối loạn tâm thần. - Biến đổi nhân cách.1. Biểu hiện lâm sàng:A. Hội chứng nghiện:- Nét đặc trưng, trung...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
NGHIỆN RƯỢU MẠN TÍNH (Kỳ 2) NGHIỆN RƯỢU MẠN TÍNH (Kỳ 2) III. NGHIỆN RƯỢU MẠN TÍNH Nghiện rượu mạn tính xảy ra khi dùng rượu dài ngày, dần dần thườngxuyên phải tìm rượu, uống rượu. Tuy nhiên không phải mọi trường hợp uống rượuthường xuyên đều có thể coi là nghiện rượu mạn tính. Nghiện rượu mạn tính là một bệnh lý nghiện chất độc, có các triệu chứngcơ bản đặc trưng cho nhóm bệnh này là: - Hội chứng nghiện. - Hội chứng cai rượu. - Sự thay đổi khả năng dung nạp rượu. - Rối loạn tâm thần. - Biến đổi nhân cách. 1. Biểu hiện lâm sàng: A. Hội chứng nghiện: - Nét đặc trưng, trung tâm để mô tả hội chứng nghiện là sự thèm muốnthường mạnh mẽ, đôi khi rất mãnh liệt sử dụng rượu. Có bằng chứng là phải quaylại sử dụng rượu sau một thời gian bỏ rượu để làm mất các cảm giác khó chịu donghiện. - Các nguyên tắc chỉ đạo chẩn đoán: Chỉ đạo chẩn đoán xác định nghiện khicó từ 3 trở lên các đặc điểm sau đây: a. Thèm muốn mạnh mẽ hoặc cảm thấy buộc phải sử dụng rượu. b. Khó khăn trong việc kiểm tra tập tính sử dụng rượu về mặt thời gian bắtđầu, kết thúc hoặc mức sử dụng. c. Một trạng thái cai sinh lý. d. Có bằng chứng về hiện tượng dung nạp rượu, như cần phải tăng liều đểchấm dứt hậu quả lúc đầu do liều thấp gây ra (Những người nghiện rượu có thểdùng hàng ngày những lượng rượu đủ để làm mất năng lực hoặc gây nguy hiểmcho những người không dung nạp được rượu). e. Dần dần sao nhãng các thú vui trước đây, bằng thay thế cho sự thích thúđi tìm và sử dụng rượu, tăng số thời gian cần thiết để tìm kiếm hay sử dụng rượu. f. Tiếp tục sử dụng rượu mặc dù có bằng chứng rõ ràng về hậu quả tác hại,như tác hại đối với gan và nhiều cơ quan khác do uống quá nhiều. Các trạng tháikhí sắc trầm tiếp theo sau những thời kỳ sử dụng rượu nặng, hoặc thiếu sót vềchức năng nhận thức tác hại của rượu. - Khuynh hướng uống rượu một cách thường xuyên vào những ngày làmviệc và những ngày nghỉ cuối tuần bất chấp những qui tắc xã hội ràng buộc. - Nét đặc trưng chủ yếu của hội chứng nghiện là phải sử dụng rượu hoặcthèm muốn khó cưỡng lại dùng rượu trong thời gian cố gắng ngừng hoặc bị kiểmsoát việc dùng rượu. B. Hội chứng cai: Hội chứng cai là biểu hiện chủ yếu của chứng nghiệnrượu, hội chứng này xuất hiện khi bệnh nhân đột nhiên ngừng uống rượu (thiếurượu). - Người bệnh có khí sắc trầm, buồn chồn, bứt rứt khó chịu, đứng ngồikhông yên. - Lo âu, sợ hãi một cách mơ hồ, các ý tưởng liên hệ thô sơ. - Rối loạn giấc ngủ, như giấc ngủ nông, dễ giật mình, dễ thức giấc, hoặc ácmộng hãi hùng, đôi khi mất ngủ hoàn toàn. - Run. - Rối loạn thần kinh thực vật (vã mồ hôi, tim đập nhanh...). - Trong hội chứng cai rượu nặng người bệnh có thể có cơn co giật độngkinh cũng như các ảo giác về thị giác và thính giác, đặc biệt về chiều và đêm. - Đặc trưng cho hội chứng cai rượu là những biểu hiện trên đều dịu đi hoặcbiến mất khi uống lại rượu. - Hội chứng cai biểu hiện ngày càng tăng dần, làm người nghiện cứ sau vàigiờ lại phải uống một liều rượu nhỏ để làm dịu đi các triệu chứng trên. Hội chứng cai rượu kéo dài từ vài giờ đến 3 - 4 tuần tùy mức độ nghiệnrượu nặng hay nhẹ. C. Khả năng dung nạp rượu: Đồng thời với sự phát triển của hội chứng cai rượu, ngưỡng dung nạprượu của người bệnh cũng thay đổi. Nghiện rượu giai đoạn đầu phát triển, ngườibệnh uống lượng tăng dần nhưng càng về sau lượng rượu ngày một kém dần, cókhi chỉ một liều lượng nhỏ rượu, người bệnh đã say. D. Rối loạn tâm thần: - Thay đổi các phản ứng cảm xúc: Rối loạn khí sắc, khoái cảm chiếm ưuthế, khoan khoái dễ chịu, nói năng huyên thuyên, khoác lác, hay đùa cợt, xàm xỡ,cáu gắt, công kích dọa nạt, chửi bới tấn công người khác. - Trạng thái khí sắc này trong một ngày có thể thay đổi từ vui nhộn, khoankhoái với những câu bông đùa vô duyên, quá xàm sỡ chuyển sang quấy rầy, nổikhùng, cau có, gây gỗ, độc ác hoặc có thể buồn rầu, đầy những sợ hãi, lo lắng, mơhồ, về đêm thường thấy những mộng mị rời rạc, ngắn ngủi hoặc những cơn rốiloạn ảo giác lẻ tẻ, thường là ảo thị (nhìn thấy rắn rết, sâu bọ, hổ báo... đang rượtđuổi theo bệnh nhân) khiến bệnh nhân có biểu hiện cảm xúc hốt hoảng sợ hãi, lahét. - Trí tuệ, trí nhớ, khả năng sáng tạo, sáng kiến đều giảm, tư duy trở nên thủcựu, người bệnh đi dần vào tình trạng sa sút tâm thần. ...

Tài liệu được xem nhiều:

Gợi ý tài liệu liên quan: