Danh mục

NGÔN NGỮ TIỀM ẨN TRONG CHÈO CỔ

Số trang: 9      Loại file: pdf      Dung lượng: 176.00 KB      Lượt xem: 17      Lượt tải: 0    
10.10.2023

Hỗ trợ phí lưu trữ khi tải xuống: 4,000 VND Tải xuống file đầy đủ (9 trang) 0
Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:

Thông tin tài liệu:

Nghiên cứu nghệ thuật chèo ta có thể cảm nhận, đằng sau vẻ đẹp về nội dung và hình thức là vẻ đẹp tiềm ẩn. Vẻ đẹp ấy là một thứ tiềm ngôn ngữ, ẩn tàng sau mỗi lời thơ, làn điệu hay hoàn cảnh của nhân vật chèo. Đây là thứ ngôn ngữ không được diễn tả bằng lời nhưng chứa đựng những triết lý sâu sắc trong cuộc sống. Cảm nhận và lý giải tiềm ngôn ngữ không chỉ là một cách nhìn nhận vào bản chất mà còn là một cách tôn vinh vẻ đẹp và sức...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
NGÔN NGỮ TIỀM ẨN TRONG CHÈO CỔ NGÔN NGỮ TIỀM ẨN TRONG CHÈO CỔ Nghiên cứu nghệ thuật chèo ta có thể cảm nhận, đằng sau vẻ đẹp về nội dung và hình thức là vẻ đẹp tiềm ẩn. Vẻ đẹp ấy là một thứ tiềm ngôn ngữ, ẩn tàng sau mỗi lời thơ, làn điệu hay hoàn cảnh của nhân vật chèo. Đây là thứ ngôn ngữ không được diễn tả bằng lời nhưng chứa đựng những triết lý sâu sắc trong cuộc sống. Cảm nhận và lý giải tiềm ngôn ngữ không chỉ là một cách nhìn nhận vào bản chất mà còn là một cách tôn vinh vẻ đẹp và sức sống trường tồn cho nghệ thuật chèo. Có người đến với chèo để nghe làn điệu chèo mượt mà, sâu lắng. Có người đến với chèo để thưởng thức tài nghệ diễn kỹ của diễn viên hoặc đến với nhân vật mà mình yêu thích. Có người đến để được buồn, vui qua câu chuyện bi, hài đậm chất trữ tình. Nhưng cũng có người đến với chèo để sống lại cảm xúc của một thời tuổi trẻ, để đắm mình trong không gian làng quê xưa và cảm nhận những triết lý nhân sinh sâu sắc. Được sinh ra từ hình thức ca vũ và tín ngưỡng dân gian, cùng với những biến đổi qua thời gian và quá trình giao lưu, tiếp biến, chèo đã tích hợp vào nó nhiều yếu tố văn hóa, không ngừng hoàn thiện để trở thành một hình thức nghệ thuật độc đáo vừa đậm chất dân gian, vừa mang tính bác học. Nếu dòng sữa mẹ dân gian đã nuôi dưỡng chèo thành hình thì tầng lớp trí thức qua các thời đại đã góp phần không nhỏ vào việc đưa chèo từ hình thức diễn xướng dân gian trở thành nghệ thuật sân khấu và làm cho chèo thêm thi vị. Chúng ta sẽ không ngạc nhiên khi thấy trong mỗi tích chèo cổ, bên cạnh triết lý dân gian và triết lý âm dương là bóng dáng của các tư tưởng Nho, Phật, Lão. Phải chăng chính sự “hòa quyện” này đã trở thành xuất phát điểm làm nên nét giản dị, mộc mạc và sự sâu sắc cho nghệ thuật chèo? Sẽ không khó để nhận ra nội dung giáo huấn đạo đức với đạo đức quan Nho giáo trong các tích chèo. Đó là những chuẩn mực đạo đức, thước đo phẩm hạnh của người phụ nữ - những đối tượng chính mà chèo hướng tới. Mặt khác, nó cũng chính là điểm tham chiếu để chèo xây dựng nên những nhân vật nữ pha, nữ lệch, những nhân vật mà hành vi ứng xử, cùng với biểu hiện đạo đức của họ chính là một phần đối trọng với chuẩn mực đạo đức Nho giáo. Quan Âm Thị Kính là một tích chèo nổi tiếng với những mảnh trò đạt tới đỉnh cao của nền nghệ thuật sân khấu truyền thống. Tích diễn đã để lại cho người xem cảm nhận về chữ nhẫn trong tinh thần Phật giáo, thông qua nhân vật Thị Kính. Dù phải chịu đến hai lần oan uổng (thuở làm vợ, chồng ngờ thất tiết, lúc giả trai, gái đổ oan tình), Thị Kính vẫn thanh thản nuôi con của Thị Mầu cho đến ngày hóa Phật. Nhưng, không chỉ một chữ nhẫn trong tinh thần Phật giáo làm nên Quan Âm Thị Kính. Ở đó còn có cả chuẩn mực đạo đức Nho giáo và những nét đẹp trong tư duy triết lý dân gian. Trước khi bị hoàn cảnh xô đẩy để “buộc phải trở thành Phật”, Thị Kính đã từng là người con gái có đủ cả công, dung, ngôn, hạnh. Một cô gái đến tuổi lấy chồng vẫn luôn canh cánh bên lòng nỗi niềm - “riêng còn e một cõi linh thông, muộn mằn chửa nảy chồi đan quế” và “ lấy ai để thừa hoan tất hạ”. Và ông Mãng - một người nông dân nơi thôn dã, đã được các nghệ nhân chèo xây dựng như một điển hình của người nông dân quê mùa chất phác, trọng tình nghĩa, trọng đạo lý và trọng quy luật của đất trời. Tích Quan Âm Thị Kính cho thấy, việc nhân duyên của Thị Kính và Thiện Sĩ vốn đã được hai gia đình ông Sùng và ông Mãng giao ước từ trước. Giao ước này là nét văn hóa khá phổ biến ở cộng đồng gia đình người Việt trước đây. Nhưng trên cả những giao ước xã hội đó, là lối ứng xử hợp đạo trời. Lối ứng xử này, được thể hiện qua câu trả lời của ông Mãng với Thiện Sĩ: “Bản tức bác bên ấy sinh anh là giai, tôi sinh gái để chi chẳng gả. Há rằng tôi có ham chốn giàu sang...” Câu trả lời của ông Mãng cho thấy, trong suy nghĩ của những người nông dân như ông, việc trai lớn dựng vợ, gái lớn gả chồng là lẽ thường, đâu cần phải ép gả, bán mua. Có thể nói, lối t ư duy này là một trong những thuộc tính bản chất đã mặc nhiên tồn tại trong con người. Cội nguồn của nó thuộc về quy luật, về bản thể của tự nhiên. Khi sinh ra, trong mỗi con người đã sẵn có một phần bản thể của tự nhiên (nhân thân tiểu vũ trụ), nhưng do môi trường sống, thiết chế xã hội hoặc vì dục vọng che lấp làm cho ít người còn nhận ra được nó. Bà mẹ tự nhiên đã sinh ra muôn loài, ban cho muôn loài sự sống và quyền duy trì nòi giống, đó là điều giản dị nhưng cũng vô cùng thiêng liêng. Con người cần phải biết trân trọng lẽ th ường này, trước hết cần phải biết trân trọng sự sống, hạnh phúc của bản thân và đồng loại. Hiểu được lẽ thường ấy, trên sân khấu, các nghệ nhân chèo đã giải quyết vấn đề hôn nhân cho con cái thật thấu tình, đạt lý. Trong hôn nhân, cha mẹ là người định hướng nhưng trao cho các con được quyền lựa chọn. Chèo đã minh chứng cho luận điểm này qua ứng xử của ông Mãng với Thị Kính, cũng như ứng xử của Thừa tướng với Thị Phương. Dưới đây là lời của ông Mãng v ...

Tài liệu được xem nhiều: