Danh mục

Người đầu tiên khám phá tranh lụa truyền thống Việt Nam

Số trang: 10      Loại file: pdf      Dung lượng: 249.72 KB      Lượt xem: 15      Lượt tải: 0    
Thư Viện Số

Hỗ trợ phí lưu trữ khi tải xuống: 3,000 VND Tải xuống file đầy đủ (10 trang) 0

Báo xấu

Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:

Thông tin tài liệu:

Trong cuộc đời và trong cả hội họa cũng vậy, rất có thể anh bỏ qua không cần Thượng Đế, nhưng anh, kẻ khổ đau, anh không thể bỏ qua không cần tới một điều cao hơn: chính là đời anh, quyền năng sáng tạo." Đó là câu nói của danh họa Vincent VanGogh mà Giáo sư họa sĩ Lê văn Đệ thường nói với các
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Người đầu tiên khám phá tranh lụa truyền thống Việt Nam Người đầu tiên khám phá tranh lụa truyền thống Việt Nam Trong cuộc đời và trong cả hội họa cũng vậy, rất có thể anh bỏ qua không cần Thượng Đế, nhưng anh, kẻ khổ đau, anh không thể bỏ qua không cần tới một điều cao hơn: chính là đời anh, quyền năng sáng tạo. Đó là câu nói của danh họa Vincent VanGogh mà Giáo sư họa sĩ Lê văn Đệ thường nói với các học sinh trường Cao đẳng Mỹ thuật Gia Định ngày xưa. Họa sĩ Lê văn Đệ (24/8/1906-16/3/1966) sinh tại Mỏ Cày, Bến Tre, trong một gia đình nhà nho. Thân sinh là cụ Lê Quang Hòe. Gia đình có 13 người con, Lê văn Đệ là con thứ mười nên ở nhà có tên là Dix (Mười). Học trung học tại trường Taberd Sài Gòn rồi thi vào trường Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương Hà Nội, năm 1925. Ông học với giáo sư họa sĩ người Pháp Victor Tardieu và Joseph Inguivaberty. Các bạn cùng thời với ông sau này đều nổi tiếng, như họa sĩ Nguyễn Phan Chánh, Lê Phổ, Mai Trung Thứ, Nguyễn Gia Trí, Tô Ngọc Vân, Trần Văn Cẩn… Sau 5 năm theo học, ông đậu thủ khoa năm 1930, khóa I Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương, và được học bổng du học Pháp. Thời gian này ông đã tạo được điểm son trong lịch sử mỹ thuật VN: Hội Nghệ sĩ Quốc gia Pháp, tại Paris ngày 1/5/1932 tổ chức cuộc triển lãm tranh, tượng; ông đoạt giải nhì với ba tác phẩm Mụ Thầy Bói, Bến Ga Monparnass, và Người Đàn Bà Cài Đầu. Trong những năm học tại Paris, tác phẩm của ông luôn gây được sự chú ý tại thủ đô Ánh Sáng. Với thành tích rực rỡ này ông được nhận thêm học bổng tu nghiệp tại Ý và Hy Lạp. Theo Đông Dương Tuần báo, vào năm 1934 , có hơn 40 tờ báo Pháp đề cập đến tác phẩm của ông. Ông được Bộ Văn hóa Pháp chọn mua bức tranh Trong Gia Đình, và được treo trang trọng ở Bảo tàng Mỹ thuật Luxembourg. Năm 1936, Tổ chức Báo chí Công giáo bảo trợ tại Rôma mở cuộc triển lãm tranh, tượng, quy tụ nhiều nghệ sĩ nổi tiếng của 30 quốc gia trên thế giới: tác phẩm của ông đoạt giải nhất. Sau đó ông được mời phụ trách trang trí trong điện VATICAN và được ban thưởng Giáo Hoàng Bội Tinh, đây là một vinh dự cho dân tộc Việt Nam. Công trình do ông chỉ đạo thực hiện đã được báo chí Ý, Pháp, và nhiều nước trên thế giới đánh giá cao về chất lượng, tuy số lượng không nhiều. Đa phần tác phẩm của ông nằm trong các sưu tập ở bảo tàng Pháp, Ý, và một số tranh chân dung các chức sắc trong tòa Thánh Vatican như: chân dung Đức Giáo Hoàng PIO XI, chân dung Đức Hồng Y Verdier, chân dung các thiếu nữ Ý, Pháp và một số tranh tôn giáo: Đức Mẹ Từ Bi, thánh Madeleine dưới chân Thập Giá (bức này được Viện bảo tàng Mỹ thuật giáo sĩ thừa sai Vatican mua), Mẹ và Con (Viện bảo tàng Mỹ thuật Aix Lachapelle đặt mua) Năm 1936, ông được Đức cha Celso-Costantins, Thư ký Bộ Truyền giáo Vatican rửa tội với tên thánh Celso-Léon Lê văn Đệ. Với bản chất là người dân Nam Bộ, mộc mạc, bình dị, thích cái đẹp thôn dã của quê hương, nên ông quyết định trở về nước sau gần 10 năm học tập, nghiên cứu, sáng tác và nổi danh ở Châu Âu. Thời gian về nước là giai đoạn ông hoàn thiện kỹ thuật vẽ tranh lụa, phối hợp nền hội họa Thủy Mặc nghìn năm của Trung Quốc, với bố cục và tỷ lệ vàng của các họa sĩ thời phục hưng ở Châu Âu, sáng tạo ra nền hội họa tranh lụa truyền thống VN. Bản chất lụa Việt Nam, là loại lụa tơ tằm, có gân, thớ lụa không mịn và đều như lụa Trung Quốc. Phần lớn họa sĩ miền Bắc dùng lụa Hà Đông, ở miền Nam dùng lụa Tư Cua ở Gia Định. Trước lúc vẽ, lụa được căng lên khung gỗ, và tẩy bằng chanh hoặc phèn chua đề phòng dán, mọt gặm nhấm. Khi vẽ thì không vẽ theo lối công bút của Trung Quốc mà là nhuộm màu từng bước, mỗi lần vẽ xong phải rửa cho cặn màu trôi đi, sau đó lại nhuộm thêm cho đến khi thấy độ màu ổn định mới thôi. Một bức tranh lụa đẹp, ngoài nội dung, bố cục, màu sắc, phải thể hiện được sự óng ả của thớ lụa, chất lụa. Nếu vẽ rửa nhiều nước thì độ mướt của chất lụa sẽ giảm, chà cọ nhiều tơ lụa sẽ bị xù lông, hoặc mặt lụa bị lì, lụa không còn độ bám của màu nữa, lúc đó người vẽ phải thay lụa mới. Màu trắng trong tranh thường được chừa lại bằng nền lụa, ngoài nét ra, các mảng thường được dùng cọ bản để đánh màu cho tan đều, chuyển độ trung gian giữa nét và khối hòa quyện vào nhau. Chính vì thế, tranh của ông thường óng ả, mềm mại, thớ lụa rõ ràng, bố cục mạch lạc, quý phái, dễ tạo nên cảm giác có một lớp nước rất mỏng, trong trẻo, dịu dàng, đưa người thưởng ngoạn quên đi phần nào cái đau khổ của phận người, của một kiếp phù sinh. Năm 1942, ông quy tụ các họa sĩ tài danh lúc bấy giờ, lập ra nhóm Nghệ thuật An Nam, tổ chức nhiều triển lãm gây tiếng vang lớn, với những tác phẩm đi vào lòng người như: bức tranh lụa Rèm Thưa, Mẫu Tử, … tại Hội chợ Triển lãm Mỹ thuật Quốc tế lần I ở vườn Tao Đàn Sài Gòn; bức Nắng Hè là một trong những bức tranh lụa nổi tiếng nhất vào những năm cuối đời ông; năm 1959 Sở Văn hóa Thông tin Hoa Kỳ đã in trang nhất, bìa lịch tết để tặng bạn đọc. Tranh lụa Lê Văn Đệ Đến năm 1954, Hiệp đị ...

Tài liệu được xem nhiều: