Thông tin tài liệu:
Việc xác định nguồn gốc của chân khớp đã cho thấy chúng có nguồn gốc từ giun nhiều tơ (trước đây người ta đã xếp chung động vật giun đốt và chân khớp vào một nhóm chung được gọi là ngành phân đốt (Articulata). Con đường chuyển từ giun đốt sang chân khớp là theo hướng phức tạp hoá cấu tạo cơ thể, cụ thể là sự phân đốt từ đồng hình sang dị hình, phức tạp hoá cấu trúc vỏ cơ thể như hoàn chỉnhbiểu bì, phân hoá bao biểu mô cơ thành bó cơ, hình thành thể xoang...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Nguồn gốc và tiến hoá của động vật Chân khớp Nguồn gốc và tiến hoá của động vật Chân khớpViệc xác định nguồn gốc của chân khớp đã chothấy chúng có nguồn gốc từ giun nhiều tơ (trướcđây người ta đã xếp chung động vật giun đốt vàchân khớp vào một nhóm chung được gọi làngành phân đốt (Articulata).Con đường chuyển từ giun đốt sang chân khớplà theo hướng phức tạp hoá cấu tạo cơ thể, cụthể là sự phân đốt từ đồng hình sang dị hình,phức tạp hoá cấu trúc vỏ cơ thể như hoàn chỉnhbiểu bì, phân hoá bao biểu mô cơ thành bó cơ,hình thành thể xoang hỗn hợp, biến đổi chi bênthành phần phụ phân đốt, hình thành tim từmạch máu lưng, phát triển mắt kép và nhất làquá trình đầu hoá (biến đổi các đốt phía trướcthành đầu và phần phụ của chúng thành phầnphụ miệng). Về nội quan thì phát triển ống khívà ống malpighi (ống malpighi vừa có khả năngbài tiết vừa có khả năng tái hấp thu nước); hìnhthành quá trình thụ tinh trong... Gần đây người hiện loài nhiều tơ sốngta phát giun đất ẩm ở Malaixia (Lycastistrong vivax,Lycastopsis amboinensis) có cấu tạo thíchnghi với điều kiện trên cạn như có vỏcuticun dày, các hốc da giống như mầm của cáckhí quản, nhánh bụng của chi bên phân đốt.Điều này gợi cho ta bước chuyển từ tổ tiên giunđốt của động vật chân khớp đến tổ tiên chânkhớp của động vật có khí quản ở cạn là nhómnhiều chân.Động vật chân khớp đã sớm phân hoá thànhnhiều nhánh khác nhau về mức độ đầu hoá, sựphân đốt của trưởng thành và ấu trùng...Nhánh tiến hoá sớm nhất và thấp nhất là ngànhTrùng ba thùy, xuất hiện từ Đại cổ sinh. Khácvới nhóm Có mang là không có đôi râu ngoài,phần phụ đầu không phân biệt với phần phụngực. Trùng ba thùy chỉ tồn tại đến cuối Đại cổsinh, thế hệ con cháu của chúng hình thành nênđộng vật Có kìm. Đôi râu thứ nhất mất đi, phầnphụ đầu biến đổi thành đôi kìm, đôi chân xúcgiác và 2 đôi chân. Hai đôi phần phụ của thânthường hợp với đầu làm thành phần phụ củakhối đầu ngực. Phần phụ của các đốt bụngtrước thường làm nhiệm vụ hô hấp, các đôi sautiêu giảm. Như vậy Trùng ba thuỳ là nhóm trunggian để chuyển từ Giun nhiều tơ sang Có kìm.Trong nhóm Có kìm thì động vật Giáp cổ còngiữ đặc điểm hô hấp bằng mang, còn Hình nhệnchuyển lên đời sống trên cạn.Nhánh tiến hoá thứ 2 là động vật Có mang đượcđặc trưng là 4 đốt thân trước hình thành đầumang 4 đôi phần phụ là đôi râu ngoài và 3 đôihàm. Tuy nhiên mức độ đầu hoá ở giáp xác cònthấp: đầu của Chân mang (Branchiopoda), giápxác lớn còn là đầu nguyên thuỷ (protocephalon).Nhánh thứ 3 là động vật Có khí quản. Khichuyển lên trên cạn, chúng đã mất đi một số đặcđiểm của giun đốt và hình thành nên một số đặcđiểm mới về cấu tạo như phần phụ một nhánh,mất mang, ống dẫn thể xoang còn lại ở một sốloài, còn phần lớn được thay thế bằng ốngmalpighi, râu tương ứng với râu trong của giápxác. Bốn đốt đầu tập trung thành 1 khối, phầnphụ 3 đốt đầu sau hình thành phần phụ miệng.Ba nhánh trên phân hoá rất sớm, mỗi nhómchân khớp đều có đốt ấu trùng đặc trưng chotừng nhóm. Đây cũng là luận điểm chứng minhnguồn gốc của chân khớp là từ giun đốt. Chú ýlà các nhóm động vật trên phân hoá theo hướngsong song và hạn chế về kích thước cơ thể docó bộ xương ngoài.Hương Thảo