Tiền sản giật là một bệnh nặng khi mang thai, có thể gây sản giật với diễn biến nặng như hôn mê, đột quỵ, phù phổi cấp, nếu không điều trị kịp thời có thể tử vong mẹ và con. Tiền sản giật có liên quan đến những bất thường của sự tự điều chỉnh tuần hoàn não, làm tăng nguy cơ đột quỵ khi chỉ số huyết áp gần như bình thường. Có khoảng 5-7% phụ nữ có thai mắc tiền sản giật....
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Nguy cơ do tiền sản giậtNguy cơ do tiền sản giậtTiền sản giật là một bệnh nặng khi mang thai, có thể gây sản giật với diễnbiến nặng như hôn mê, đột quỵ, phù phổi cấp, nếu không điều trị kịp thời cóthể tử vong mẹ và con. Tiền sản giật có liên quan đến những bất thường củasự tự điều chỉnh tuần hoàn não, làm tăng nguy cơ đột quỵ khi chỉ số huyết ápgần như bình thường. Có khoảng 5-7% phụ nữ có thai mắc tiền sản giật. Nguyên nhân gây tiền sản giật Có nhiều nguyên nhân gây tiền sản giật như: những thai phụ bị nhiễm độc thai nghén, tăng huyết áp, các bệnh thận mạn tính, rối loạn tâm thần và nội tiết, con so, sinh đôi và đa thai, đái tháo đường, tiền sử bệnh thận hoặc tăng huyết áp mạn tính, tiền sử đã mắc tiền sản giật, thai phụ cao tuổi (trên 35) hoặc quá thấp (dưới 16 tuổi), béo phì, đột biến do yếu tố V Leiden, gen angiotensinogen T235, hội chứng kháng thể kháng phospholipid, do thời tiết giá rét, ẩm ướt... Biểu hiện tiền sản giật như thế nào? Tiền sản giật gồm các rối loạn: tăng huyết áp và Quản lý thai nghén là biện pháp tốt để protein niệu kèm theo các rối loạn chức năng hệphòng tránh tiền sản giật. thần kinh trung ương như đau đầu, nhìn mờ, cơn co giật, hôn mê. Tiền sản giật nhẹ có protein niệukhoảng 1-2g, phù nhiều, tăng cân lên chừng 3-4 kg, tiểu ít, huyết áp lên tới170/100mmHg, nhức đầu. Thai phụ bị tiền sản giật nhẹ khi được chẩn đoán bịtăng huyết áp, protein niệu và phù trở lại mà không có bằng chứng tiền sản giậtnặng. Nếu không chữa trị khẩn trương có thể tiến triển thành tiền sản giật nặng.Tiền sản giật nặng protein niệu 2-3g hay cao hơn, phù nhiều, thai phụ tăng hàngchục kg, huyết áp tăng cao, có khi đến 190/100 mmHg, tiểu ít, nhức đầu nhiềunhưng uống thuốc gì cũng không đỡ; mờ mắt, phù võng mạc hay xuất huyết võngmạc; toàn thân mệt mỏi, hốt hoảng, bơ phờ... Hậu quả là tổn thương nội mô củanhiều cơ quan. Nếu protein niệu cao hơn 5g/24 giờ, thiểu niệu hay suy thận, phùphổi, tổn thương tế bào gan, giảm tiểu cầu dưới 1000.000/microlit hay đông máunội mạch lan tỏa; có biểu hiện của hội chứng HELLP bao gồm: tan huyết, men gantăng, tiểu cầu thấp là một dạng đặc biệt của tiền sản giật nặng, đây là nguyên nhânchính dẫn đến bệnh và tử vong của tiền sản giật.Chữa trị và phòng bệnh tiền sản giậtThai phụ bị tiền sản giật sẽ phục hồi trong vòng vài tuần sau khi sinh. Trường hợpbị tiền sản giật khi tuổi thai nhỏ hơn 37 tuần, nếu để người mẹ sinh có thể giảm tỷlệ bệnh của mẹ nhưng gây nguy cơ sinh non cho thai. Điều trị tiền sản giật đòi hỏithầy thuốc phải cân nhắc giữa sức khỏe của mẹ và của thai, phải quyết định saocho có cơ hội tốt nhất cho thai nhi còn sống. Đối với thai phụ bị tiền sản giật nhẹcó thể xử lý: cho nằm nghỉ, theo dõi chặt chẽ huyết áp và chức năng thận, theo dõisát sức khỏe thai nhi. Những trường hợp thai phụ bị tiền sản giật nặng, nếu thaitrên 32 tuần tuổi thì nên cho sinh sớm. Điều trị tiền sản giật nặng khi thai còn xakỳ sinh có thể có lợi cho thai nhi nhưng gây nguy cơ cao cho thai phụ. Khi đó nênquản lý thai phụ ở các trung tâm chăm sóc chuyên khoa tuyến tỉnh, nơi có bác sĩchuyên khoa sản chăm sóc cho mẹ và thai, có đủ điều kiện xử trí các tai biến.Đối với thai phụ bị tiền sản giật nặng, phải điều trị tích cực chứng tăng huyết áp đểlàm giảm nguy cơ tai biến mạch máu não.Có thể dùng Labelatol hay hydralazin truyền tĩnh mạch là hai thứ thuốc thườngdùng nhất để xử lý tiền sản giật. Cũng có thể dùng thuốc chẹn kênh canxi. Tuânthủ nguyên tắc là giảm huyết áp động mạch từ từ để tránh giảm huyết áp và giảmlượng máu đến thai. Tránh dùng những chất ức chế men chuyển angiotensin cũngnhư những chất chẹn thụ thể angiotensin trong ba tháng giữa và ba tháng cuối củathai kỳ vì ảnh hưởng có hại cho sự phát triển của thai nhi. Thai phụ điều trị bằngnhững chất ức chế men chuyển angiotensin thường bị ít dịch ối, có lẽ là do giảmchức năng thận của thai nhi.Để điều trị và phòng ngừa cơn sản giật có thể dùng magiê sunphat vì hiệu quả tốthơn hẳn phenitoin và diazepam. Magiê có thể ngừa cơn sản giật bằng cách tươngtác với các thụ thể N-Methyl-D-asparate (NMDA) trong hệ thần kinh trung ương.Do khó dự đoán được cơn sản giật trong những ca bệnh nặng nên khi đã quyếtđịnh cho sinh thì tất cả thai phụ đã chẩn đoán tiền sản giật nên được điều trị bằngmagiê sunphat.Quản lý thai nghén tốt, phát hiện và điều trị tích cực các trường hợp tiền sản giật làcách tốt nhất để ngăn chặn bệnh tiến triển thành sản giật, hạn chế tai biến năng chocả mẹ và thai nhi. ...