Nguyên tắc đối thoại trong tản văn Việt Nam đầu thế kỷ XXI
Số trang: 9
Loại file: pdf
Dung lượng: 458.36 KB
Lượt xem: 21
Lượt tải: 0
Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:
Thông tin tài liệu:
Nguyên tắc đối thoại là một trong những yếu tố làm nên giá trị và sức hấp dẫn của văn xuôi đương đại. Đối với thể loại tản văn, nguyên tắc đối thoại quyết định giá trị và có tính phân loại vị trí của một sáng tác. Nguyên tắc đối thoại trở thành dấu hiệu nhận biết những tập tản văn có giá trị ở đầu thế kỷ XXI.
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Nguyên tắc đối thoại trong tản văn Việt Nam đầu thế kỷ XXITẠPCHÍKHOAHỌC-SỐ44/2020 23 NGUYÊNTẮCĐỐITHOẠITRONGTẢNVĂNVIỆTNAM ĐẦUTHẾKỶXXI Nguyễn Thị Thanh Huyền Trường Đại học Thủ đô Hà Nội Tóm tắt: Nguyên tắc đối thoại là một trong những yếu tố làm nên giá trị và sức hấp dẫn của văn xuôi đương đại. Đối với thể loại tản văn, nguyên tắc đối thoại quyết định giá trị và có tính phân loại vị trí của một sáng tác. Nguyên tắc đối thoại trở thành dấu hiệu nhận biết những tập tản văn có giá trị ở đầu thế kỷ XXI. Ở đó, tác giả và độc giả có sự tương tác, bày tỏ quan điểm cá nhân trên tinh thần trung thực, cởi mở. Nguyên tắc đối thoại vốn đã được xác lập trong các sáng tác trước đó, nhưng cho tới nay, sự phù hợp cao độ giữa đặc điểm riêng của thể loại với bối cảnh chung của đời sống xã hội là môi trường lý tưởng để nguyên tắc đối thoại được thể hiện sắc nét hơn. Từ khóa: Nguyên tắc đối thoại, tản văn, tương tác, quan điểm, tinh thần trung thực. Nhận bài ngày 26.8.2020; gửi phản biện, chỉnh sửa và duyệt đăng ngày 20.9.2020 Liên hệ tác giả: Nguyễn Thị Thanh Huyền; Email: huyenntt@daihocthudo.edu.vn1. MỞ ĐẦU Mỗi thể loại, mỗi tác phẩm văn học là một diễn ngôn, thuộc về một loại hình diễn ngôn.Trong một diễn ngôn, chủ thể sáng tạo định hình một chiến lược giao tiếp. Vậy chiến lượcgiao tiếp được hiểu “là mô hình tương tác cố định của những người tham gia sự kiện giaotiếp (diễn ngôn). Nếu sự kiện giao tiếp là sự kiện giữa các cá nhân, thì chiến lược giao tiếplà một hệ thống tham số cơ bản nào đó của việc sáng tạo văn bản” [3]. Trong khái niệm củaV.I. Chiupa có hai vấn đề cơ bản liên quan tới lý thuyết diễn ngôn: Thứ nhất, những “môhình tương tác cố định”- là cơ chế kiến tạo diễn ngôn theo những quy ước riêng của một thểloại; những người “tham gia sự kiện diễn ngôn” – liên quan tới thẩm quyền sáng tạo và thẩmquyền tiếp nhận. Nội hàm của các vấn đề đó đã được trình bày ở phần trên khi luận án tìmhiểu về diễn ngôn và thẩm quyền diễn ngôn. Thứ hai, khái niệm chỉ dẫn có thể nhận biếtchiến lược giao tiếp qua một “hệ thống những tham số cơ bản” của việc sáng tác như: Ngônngữ, giọng điệu, kết cấu, chất liệu v.v… có thể xem đây là những biểu hiện của những bìnhdiện khác nhau trong cấu trúc diễn ngôn. Nghiên cứu về chiến lược giao tiếp không thể táchkhỏi lý thuyết diễn ngôn. Các vấn đề lý thuyết đó thực sự quan trọng trong việc tìm hiểunghệ thuật xây dựng tản văn Việt Nam từ góc độ chiến lược giao tiếp. Với tư cách là “một hệ thống tham số cơ bản của việc sáng tạo văn bản”, chiến lược24 TRƯỜNGĐẠIHỌCTHỦĐÔHÀNỘIgiao tiếp giữ vai trò quan trọng, nó trở thành “một trong những tính năng cơ bản của cáchiện tượng văn học như thể loại và hệ hình của tính nghệ thuật” [3]. Nói cách khác, ở mỗithể loại, chiến lược giao tiếp thể hiện quyền uy và đặt ra ý đồ của chủ thể sáng tạo khi xâydựng mối quan hệ giao tiếp với chủ thể tiếp nhận. Nếu lấy lý thuyết căn bản về diễn ngôn,thẩm quyền diễn ngôn và chiến lược giao tiếp với tư cách là chủ định của diễn ngôn làmthang giá trị, tản văn Việt Nam đầu thế kỷ XXI đã sử dụng hiệu quả hai chiến lược: đối thoạivà khơi gợi. Trong khuôn khổ bài viết này, chúng tôi đặc biệt quan tâm tới nguyên tắc đốithoại trong tản văn Việt Nam đầu thế kỷ XXI.2. NỘI DUNG2.1 Về bản chất của nguyên tắc đối thoại So với tản văn Việt Nam thế kỷ XX, một trong những biến đổi quan trọng của tản vănđầu thế kỷ XXI là tăng cường tính đối thoại và khả năng kích thích sự phản biện. Có thể xemđó là ưu điểm của thể loại (so với tản văn ở chặng đường trước đó) khi nó phá vỡ sự chừngmực – những giới hạn chủ quan trong biểu hiện. Tính chất đó là hệ quả của nguyên tắc đốithoại mở mà những cây bút sáng tác ở thời kỳ này tự “cấp” cho mình quyền được chất vấnthời đại, đồng thời tạo cơ hội cho độc giả sử dụng quyền phản biện. Tính đối thoại được mởra từ nhiều phía, tạo ra sự cân bằng của các phương diện trong thẩm quyền diễn ngôn, nókhiến cả tác giả lẫn độc giả có cảm giác mình được tự do trong suy ngẫm – một dấu hiệuquan trọng của tính bình đẳng, dân chủ trong văn học. Định nghĩa về diễn ngôn, Julia Kristeva cho rằng: “Nguyên tắc đối thoại bao giờ cũngđi đôi với các cấu trúc chiều sâu của diễn ngôn,… Nguyên tắc đối thoại là nguyên tắc củamọi phát ngôn” [3], diễn ngôn của từng thể loại sẽ quyết định lựa chọn chiến lược phát ngôntheo nguyên tắc độc thoại đóng kín hay đối thoại mở. Ngay từ đầu, thể loạ ...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Nguyên tắc đối thoại trong tản văn Việt Nam đầu thế kỷ XXITẠPCHÍKHOAHỌC-SỐ44/2020 23 NGUYÊNTẮCĐỐITHOẠITRONGTẢNVĂNVIỆTNAM ĐẦUTHẾKỶXXI Nguyễn Thị Thanh Huyền Trường Đại học Thủ đô Hà Nội Tóm tắt: Nguyên tắc đối thoại là một trong những yếu tố làm nên giá trị và sức hấp dẫn của văn xuôi đương đại. Đối với thể loại tản văn, nguyên tắc đối thoại quyết định giá trị và có tính phân loại vị trí của một sáng tác. Nguyên tắc đối thoại trở thành dấu hiệu nhận biết những tập tản văn có giá trị ở đầu thế kỷ XXI. Ở đó, tác giả và độc giả có sự tương tác, bày tỏ quan điểm cá nhân trên tinh thần trung thực, cởi mở. Nguyên tắc đối thoại vốn đã được xác lập trong các sáng tác trước đó, nhưng cho tới nay, sự phù hợp cao độ giữa đặc điểm riêng của thể loại với bối cảnh chung của đời sống xã hội là môi trường lý tưởng để nguyên tắc đối thoại được thể hiện sắc nét hơn. Từ khóa: Nguyên tắc đối thoại, tản văn, tương tác, quan điểm, tinh thần trung thực. Nhận bài ngày 26.8.2020; gửi phản biện, chỉnh sửa và duyệt đăng ngày 20.9.2020 Liên hệ tác giả: Nguyễn Thị Thanh Huyền; Email: huyenntt@daihocthudo.edu.vn1. MỞ ĐẦU Mỗi thể loại, mỗi tác phẩm văn học là một diễn ngôn, thuộc về một loại hình diễn ngôn.Trong một diễn ngôn, chủ thể sáng tạo định hình một chiến lược giao tiếp. Vậy chiến lượcgiao tiếp được hiểu “là mô hình tương tác cố định của những người tham gia sự kiện giaotiếp (diễn ngôn). Nếu sự kiện giao tiếp là sự kiện giữa các cá nhân, thì chiến lược giao tiếplà một hệ thống tham số cơ bản nào đó của việc sáng tạo văn bản” [3]. Trong khái niệm củaV.I. Chiupa có hai vấn đề cơ bản liên quan tới lý thuyết diễn ngôn: Thứ nhất, những “môhình tương tác cố định”- là cơ chế kiến tạo diễn ngôn theo những quy ước riêng của một thểloại; những người “tham gia sự kiện diễn ngôn” – liên quan tới thẩm quyền sáng tạo và thẩmquyền tiếp nhận. Nội hàm của các vấn đề đó đã được trình bày ở phần trên khi luận án tìmhiểu về diễn ngôn và thẩm quyền diễn ngôn. Thứ hai, khái niệm chỉ dẫn có thể nhận biếtchiến lược giao tiếp qua một “hệ thống những tham số cơ bản” của việc sáng tác như: Ngônngữ, giọng điệu, kết cấu, chất liệu v.v… có thể xem đây là những biểu hiện của những bìnhdiện khác nhau trong cấu trúc diễn ngôn. Nghiên cứu về chiến lược giao tiếp không thể táchkhỏi lý thuyết diễn ngôn. Các vấn đề lý thuyết đó thực sự quan trọng trong việc tìm hiểunghệ thuật xây dựng tản văn Việt Nam từ góc độ chiến lược giao tiếp. Với tư cách là “một hệ thống tham số cơ bản của việc sáng tạo văn bản”, chiến lược24 TRƯỜNGĐẠIHỌCTHỦĐÔHÀNỘIgiao tiếp giữ vai trò quan trọng, nó trở thành “một trong những tính năng cơ bản của cáchiện tượng văn học như thể loại và hệ hình của tính nghệ thuật” [3]. Nói cách khác, ở mỗithể loại, chiến lược giao tiếp thể hiện quyền uy và đặt ra ý đồ của chủ thể sáng tạo khi xâydựng mối quan hệ giao tiếp với chủ thể tiếp nhận. Nếu lấy lý thuyết căn bản về diễn ngôn,thẩm quyền diễn ngôn và chiến lược giao tiếp với tư cách là chủ định của diễn ngôn làmthang giá trị, tản văn Việt Nam đầu thế kỷ XXI đã sử dụng hiệu quả hai chiến lược: đối thoạivà khơi gợi. Trong khuôn khổ bài viết này, chúng tôi đặc biệt quan tâm tới nguyên tắc đốithoại trong tản văn Việt Nam đầu thế kỷ XXI.2. NỘI DUNG2.1 Về bản chất của nguyên tắc đối thoại So với tản văn Việt Nam thế kỷ XX, một trong những biến đổi quan trọng của tản vănđầu thế kỷ XXI là tăng cường tính đối thoại và khả năng kích thích sự phản biện. Có thể xemđó là ưu điểm của thể loại (so với tản văn ở chặng đường trước đó) khi nó phá vỡ sự chừngmực – những giới hạn chủ quan trong biểu hiện. Tính chất đó là hệ quả của nguyên tắc đốithoại mở mà những cây bút sáng tác ở thời kỳ này tự “cấp” cho mình quyền được chất vấnthời đại, đồng thời tạo cơ hội cho độc giả sử dụng quyền phản biện. Tính đối thoại được mởra từ nhiều phía, tạo ra sự cân bằng của các phương diện trong thẩm quyền diễn ngôn, nókhiến cả tác giả lẫn độc giả có cảm giác mình được tự do trong suy ngẫm – một dấu hiệuquan trọng của tính bình đẳng, dân chủ trong văn học. Định nghĩa về diễn ngôn, Julia Kristeva cho rằng: “Nguyên tắc đối thoại bao giờ cũngđi đôi với các cấu trúc chiều sâu của diễn ngôn,… Nguyên tắc đối thoại là nguyên tắc củamọi phát ngôn” [3], diễn ngôn của từng thể loại sẽ quyết định lựa chọn chiến lược phát ngôntheo nguyên tắc độc thoại đóng kín hay đối thoại mở. Ngay từ đầu, thể loạ ...
Tìm kiếm theo từ khóa liên quan:
Nguyên tắc đối thoại Tản văn Việt Nam Văn xuôi đương đại Nguyên tắc đối thoại quyết định giá trị Văn học Việt NamGợi ý tài liệu liên quan:
-
Giáo trình Văn học Việt Nam hiện đại (Từ sau cách mạng tháng Tám 1945): Phần 1 (Tập 2)
79 trang 362 11 0 -
Giáo trình Văn học Việt Nam giai đoạn 1945-1975: Phần 1 - Trường ĐH Thủ Dầu Một
142 trang 339 8 0 -
Oan và giải oan trong truyện Nghiệp oan của Đào Thị của Nguyễn Dữ
6 trang 254 0 0 -
Luận án tiến sĩ Ngữ văn: Dấu ấn tư duy đồng dao trong thơ thiếu nhi Việt Nam từ 1945 đến nay
193 trang 218 0 0 -
91 trang 179 0 0
-
Chi tiết 'cái chết' trong tác phẩm của Nam Cao
9 trang 164 0 0 -
Giáo trình Văn học Việt Nam hiện đại (Từ đầu thế kỉ XX đến 1945): Phần 2 (Tập 1)
94 trang 148 6 0 -
Khóa luận tốt nghiệp: Sự ảnh hưởng của tư tưởng Nho giáo trong Hồng Đức Quốc âm thi tập
67 trang 135 0 0 -
Luận văn tốt nghiệp đại học ngành Ngữ văn: Đặc điểm truyện thơ Lục Vân Tiên của Nguyễn Đình Chiểu
85 trang 128 0 0 -
Văn học bằng ngôn ngữ học-Thử xét văn hoá: Phần 2
149 trang 120 0 0