Tên khai sinh là Nguyễn An Thuyên, sinh ngày 15 tháng 8 năm 1949, quê tại Quỳnh Lưu, Nghệ An. Hiện là Hiệu trưởng Trường Cao đẳng Nghệ thuật Quân đội. Uỷ viên Ban Chấp hành, Trưởng Ban Kiểm tra Hội Nhạc sĩ Việt Nam khoá V.Ông công tác ở Ty Văn hoá Nghệ An từ năm 1967. Năm 1975, ông vào bộ đội. Năm 1977, ở Đoàn Văn công Quân khu IV. Từ năm 1981 đến năm 1988, ông tốt nghiệp, năm 1988 ông về Phòng Văn nghệ Quân đội và đến tháng 8 năm 1992, ông về...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
NHẠC SỸ AN THUYÊN NHẠC SỸ AN THUYÊN Nhạc sỹ An Thuyên Tên khai sinh là Nguyễn An Thuyên, sinh ngày 15 tháng 8 năm 1949, quêtại Quỳnh Lưu, Nghệ An. Hiện là Hiệu trưởng Trường Cao đẳng Nghệ thuậtQuân đội. Uỷ viên Ban Chấp hành, Trưởng Ban Kiểm tra Hội Nhạc sĩ Việt Namkhoá V. Ông công tác ở Ty Văn hoá Nghệ An từ năm 1967. Năm 1975, ông vào bộ đội.Năm 1977, ở Đoàn Văn công Quân khu IV. Từ năm 1981 đến năm 1988, ông tốtnghiệp, năm 1988 ông về Phòng Văn nghệ Quân đội và đến tháng 8 năm 1992, ông vềcông tác ở Trường Nghệ thuật Quân đội cho đến nay. An Thuyên sáng tác ca khúc khá đều đặn và đều tay. Nhiều tác phẩm có chấtlượng tốt và đã có sức lan toả rộng như: Em chọn lối này, Đêm nghe hát đò đưa nhớBác, Hành quân lên Tây Bắc, Khi xe tăng qua miền Quan họ, Thơ tình của núi, Chínbậc tình yêu, Huế thương, Neo đậu bến quê, Mẹ Việt Nam anh hùng, Ca dao em vàtôi... Tên khai sinh là Nguyễn An Thuyên, sinh ngày 15 tháng 8 năm 1949, quê tạiQuỳnh Lưu, Nghệ An. Hiện là Hiệu trưởng Trường Cao đẳng Nghệ thuật Quân đội.Uỷ viên Ban Chấp hành, Trưởng Ban Kiểm tra Hội Nhạc sĩ Việt Nam khoá V. Ông công tác ở Ty Văn hoá Nghệ An từ năm 1967. Năm 1975, ông vào bộ đội.Năm 1977, ở Đoàn Văn công Quân khu IV. Từ năm 1981 đến năm 1988, ông tốtnghiệp, năm 1988 ông về Phòng Văn nghệ Quân đội và đến tháng 8 năm 1992, ông vềcông tác ở Trường Nghệ thuật Quân đội cho đến nay. An Thuyên sáng tác ca khúc khá đều đặn và đều tay. Nhiều tác phẩm có chấtlượng tốt và đã có sức lan toả rộng như: Em chọn lối này, Đêm nghe hát đò đưa nhớBác, Hành quân lên Tây Bắc, Khi xe tăng qua miền Quan họ, Thơ tình của núi, Chínbậc tình yêu, Huế thương, Neo đậu bến quê, Mẹ Việt Nam anh hùng, Ca dao em vàtôi... Ông còn viết một số kịch hát đã được dàn dựng ở nhiều Đoàn Văn công nhưTrương Chi, Đôi đũa kim giao, Biển tình cay đắng. Ngoài ra, ông còn sáng tác cho khínhạc, đáng chú ý có Concerto cho flute và dàn nhạc giao hưởng. Ông còn viết nhạccho phim và viết phần âm nhạc cho khoảng 60 vở kịch nói, tuồng, chèo... Các giải thưởng: Giải Nhất cuộc thi ca khúc toàn quốc năm 1985: Tiếng đànbalalaica trên sông Đà (phỏng thơ Quang Huy); Giải thưởng chính thức của Bộ Quốcphòng: Hành quân lên Tây Bắc (1984), Thơ tình của núi (1994); Giải Nhất của BộVăn hoá - Thông tin và Hội Nhạc sĩ Việt Nam: Khi xe tăng qua miền Quan họ (1985),Mẹ Việt Nam anh hùng (1995); Giải Nhì Hội Nhạc sĩ Việt Nam: Chín bậc tình yêu(1992).