NHÂN HỌC VĂN HÓA, MỘT VÀ NHIỀU
Số trang: 11
Loại file: pdf
Dung lượng: 154.09 KB
Lượt xem: 9
Lượt tải: 0
Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:
Thông tin tài liệu:
Từ khi nó tồn tại, nhân học không ngừng cọ xát về cùng một vấn đề: Bảo toàn sự thống nhất của giống người và giải thích tính đa dạng về những sản xuất văn hóa của nó như thế nào? Làm thế nào mà nhân học (anthropologie) - về mặt từ nguyên là "khoa học về con người" - lại đi tới chỗ chỉ "khoa học về các xã hội nhìn từ bên ngoài"(1)?
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
NHÂN HỌC VĂN HÓA, MỘT VÀ NHIỀU NHÂN HỌC VĂN HÓA, MỘT VÀ NHIỀU Nicolas Journet Từ khi nó tồn tại, nhân học không ngừng cọ xát về cùng một vấn đề: Bảotoàn sự thống nhất của giống người và giải thích tính đa dạng về những sảnxuất văn hóa của nó như thế nào? Làm thế nào mà nhân học (anthropologie)- về mặt từ nguyên là khoa học về con người - lại đi tới chỗ chỉ khoa họcvề các xã hội nhìn từ bên ngoài(1)? Các nhà sử học về môn học này muốn nhắc lại rằng nguồn gốc của nó trùng lẫnvới một số xét đoán tự phát và khá cổ xưa: chẳng hạn, môn học của nhà sử học HyLạp Herodote, người đã cố mô tả người Ai Cập như những kẻ hành động ngượclại các dân khác, nghĩa là chính người Hy Lạp, hay của nhà địa lý Strabon, ngườiđã làm nổi bật lên tính hoang dã của phong tục người Germains. Tóm lại, nhân học đã làm nổi bật lên thiên hướng quan tâm tới những mặt khácnhau, những phong tục và tín ngưỡng hiện có không phải giữa các cá nhân, màgiữa các tập thể có thể là gần nhau nhưng lại khác nhau, lại vừa lấy làm ngạcnhiên khi đem đối chiếu với chính bản thân mình. Sự hình thành một bộ môn hànlâm mang một dự án như vậy đã có từ nửa sau của thế kỷ XIX. Nhất là vào thời đó,nhân học chỉ hàm khả năng đánh giá các màu da, đo các hộp sọ và xác định cácchủng tộc. Một cuộc tranh luận cũ làm xáo động các vùng tri thức ấy: Loài ngườithoát thai từ một gốc (monogénisme, thuyết một nguồn) hay từ nhiều gốc(polygénisme, thuyết nhiều nguồn)? Nhân học, theo nghĩa hiện đại của thuật ngữ này, hình thành vào lúc nó đứngvề một phía: Phía của bá tước Buffon, cho rằng loài người có một nguồn gốc,nhưng lại khác nhau dưới ảnh hưởng của khí hậu. Chính là do phản bác ý tưởngtính nhiều nguồn tự nhiên về căn bản của các chủng tộc người mà các nhà sáng lậpra bộ môn này mang theo một chương trình và nhất là một vấn đề phải giải quyết.Nếu loài người là một, thì làm thế nào để nhận biết, xếp loại và nhất là biện minhcho những khác biệt tinh thần, trí tuệ và xã hội mà tính đa năng của các lối sống,từ châu Âu sang châu Úc, cho thấy sự tồn tại của chúng? Tóm lại, từ hồi đó ngườita quay đi quay lại để biện minh cho một yêu cầu thứ hai: vấn đề xây dựng mộtkhoa học, nghĩa là một tri thức không có liên quan với sự phán xét của người nêunó ra. Về mặt này, nhiệm vụ thật gay go. Ba thí dụ về các trường phái tư tưởng,được chọn trong các giai đoạn đầu tiên của sự phát triển nhân học, có thể giúpchứng minh điều đó. Ở thế kỷ XIX, các nhà khoa học về sự sống bị chi phối bởi ý tưởng tiến hóa.Nhân học không thoát khỏi khuynh hướng này. Các nhà luật học và sử học, ngàynay được coi như những người cha sáng lập bộ môn này, đã quan tâm tới việc tìmra lịch sử đã mất đi của loài người từ nguồn gốc của nó. Không phải chỉ là lịch sửvề những hình thức hóa thạch của nó, mà cả lịch sử những sản xuất của nó: kỹthuật, ngôn ngữ, tín ngưỡng và thể chế. Để làm được điều đó, họ áp dụng châmngôn của Joseph-Marie de Gerando, hội viên của Hội những nhà quan sát conngười chóng tàn (1799-1805): đi một bước trên thế giới là vượt qua một thế kỷ.Hồ sơ về nguồn gốc nằm trong những truyện kể của những người du hành: các nhànhân học, tuy bản thân họ không di chuyển, mà chỉ chiếm lấy, phân tích và xếploại những tập quán của những người dân đầu tiên ở châu Mỹ, ở các đảo đạidương và châu Á hẻo lánh. Rồi họ so sánh với những phong tục của Hy Lạp và cổAi Cập: bằng cách đó Johannes Bachofen khám phá ra chế độ mẫu hệ; JohnMcLennan khám phá ra sự chung đụng nguyên thuỷ và chế độ ngoại hôn; HenriS.Maine-chế độ chuyên chế phụ quyền, còn James Frazer thì xác nhận sự thờ vậtlinh. Bản thân họ hay những người kế tục họ đã dựng lại các lớp, xác định các giaiđoạn và đặt những khám phá của mình trong các giai đoạn ấy. Chẳng hạn, LewisH.Morgan, năm 1877, phân biệt ba giai đoạn trong sự tiến hoá của của các xã hộiloài người: hoang dã, man dã và văn minh. Hai giai đoạn trước lại được chia thànhba chặng (sơ kỳ, trung kỳ và hậu kỳ). Những kỹ thuật và những thể chế tương ứngvới mỗi giai đoạn này: hoang dã hậu kỳ chứng kiến việc hái lượm và thực hànhsự chung đụng; man dã hậu kỳ biết tới nông nghiệp và đồ gốm, sống thành bộlạc và theo chế độ một vợ một chồng. Và cứ thế cho đến văn minh các quốc gia,các thành phố và của chữ viết, nghĩa là nền văn minh của chúng ta. Nhưng chươngtrình của những người theo thuyết tiến hóa không tự giới hạn vào việc mô tả, nóđụng tới cả việc thiết lập những qui luật tiến hóa văn hóa, tìm hiểu việc chuyển từgiai đoạn này sang giai đoạn khác được thực hiện như thế nào và giải thích tại saonhiều quốc gia vẫn đi sau, thậm chí còn thoái hóa. Người ta thường có lý khi lên án cái cách mà các nhà nhân học đầu tiên ấy,bằng việc lập thứ bậc cho các văn hóa, đã biện minh một cách rộng rãi công cuộcthực dân, tỏ ra khinh miệt những người nguyên thuỷ), nếu không phải là khuyếnkhích chủ nghĩa chủng tộc. Nhưng chủ nghĩa chủng t ...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
NHÂN HỌC VĂN HÓA, MỘT VÀ NHIỀU NHÂN HỌC VĂN HÓA, MỘT VÀ NHIỀU Nicolas Journet Từ khi nó tồn tại, nhân học không ngừng cọ xát về cùng một vấn đề: Bảotoàn sự thống nhất của giống người và giải thích tính đa dạng về những sảnxuất văn hóa của nó như thế nào? Làm thế nào mà nhân học (anthropologie)- về mặt từ nguyên là khoa học về con người - lại đi tới chỗ chỉ khoa họcvề các xã hội nhìn từ bên ngoài(1)? Các nhà sử học về môn học này muốn nhắc lại rằng nguồn gốc của nó trùng lẫnvới một số xét đoán tự phát và khá cổ xưa: chẳng hạn, môn học của nhà sử học HyLạp Herodote, người đã cố mô tả người Ai Cập như những kẻ hành động ngượclại các dân khác, nghĩa là chính người Hy Lạp, hay của nhà địa lý Strabon, ngườiđã làm nổi bật lên tính hoang dã của phong tục người Germains. Tóm lại, nhân học đã làm nổi bật lên thiên hướng quan tâm tới những mặt khácnhau, những phong tục và tín ngưỡng hiện có không phải giữa các cá nhân, màgiữa các tập thể có thể là gần nhau nhưng lại khác nhau, lại vừa lấy làm ngạcnhiên khi đem đối chiếu với chính bản thân mình. Sự hình thành một bộ môn hànlâm mang một dự án như vậy đã có từ nửa sau của thế kỷ XIX. Nhất là vào thời đó,nhân học chỉ hàm khả năng đánh giá các màu da, đo các hộp sọ và xác định cácchủng tộc. Một cuộc tranh luận cũ làm xáo động các vùng tri thức ấy: Loài ngườithoát thai từ một gốc (monogénisme, thuyết một nguồn) hay từ nhiều gốc(polygénisme, thuyết nhiều nguồn)? Nhân học, theo nghĩa hiện đại của thuật ngữ này, hình thành vào lúc nó đứngvề một phía: Phía của bá tước Buffon, cho rằng loài người có một nguồn gốc,nhưng lại khác nhau dưới ảnh hưởng của khí hậu. Chính là do phản bác ý tưởngtính nhiều nguồn tự nhiên về căn bản của các chủng tộc người mà các nhà sáng lậpra bộ môn này mang theo một chương trình và nhất là một vấn đề phải giải quyết.Nếu loài người là một, thì làm thế nào để nhận biết, xếp loại và nhất là biện minhcho những khác biệt tinh thần, trí tuệ và xã hội mà tính đa năng của các lối sống,từ châu Âu sang châu Úc, cho thấy sự tồn tại của chúng? Tóm lại, từ hồi đó ngườita quay đi quay lại để biện minh cho một yêu cầu thứ hai: vấn đề xây dựng mộtkhoa học, nghĩa là một tri thức không có liên quan với sự phán xét của người nêunó ra. Về mặt này, nhiệm vụ thật gay go. Ba thí dụ về các trường phái tư tưởng,được chọn trong các giai đoạn đầu tiên của sự phát triển nhân học, có thể giúpchứng minh điều đó. Ở thế kỷ XIX, các nhà khoa học về sự sống bị chi phối bởi ý tưởng tiến hóa.Nhân học không thoát khỏi khuynh hướng này. Các nhà luật học và sử học, ngàynay được coi như những người cha sáng lập bộ môn này, đã quan tâm tới việc tìmra lịch sử đã mất đi của loài người từ nguồn gốc của nó. Không phải chỉ là lịch sửvề những hình thức hóa thạch của nó, mà cả lịch sử những sản xuất của nó: kỹthuật, ngôn ngữ, tín ngưỡng và thể chế. Để làm được điều đó, họ áp dụng châmngôn của Joseph-Marie de Gerando, hội viên của Hội những nhà quan sát conngười chóng tàn (1799-1805): đi một bước trên thế giới là vượt qua một thế kỷ.Hồ sơ về nguồn gốc nằm trong những truyện kể của những người du hành: các nhànhân học, tuy bản thân họ không di chuyển, mà chỉ chiếm lấy, phân tích và xếploại những tập quán của những người dân đầu tiên ở châu Mỹ, ở các đảo đạidương và châu Á hẻo lánh. Rồi họ so sánh với những phong tục của Hy Lạp và cổAi Cập: bằng cách đó Johannes Bachofen khám phá ra chế độ mẫu hệ; JohnMcLennan khám phá ra sự chung đụng nguyên thuỷ và chế độ ngoại hôn; HenriS.Maine-chế độ chuyên chế phụ quyền, còn James Frazer thì xác nhận sự thờ vậtlinh. Bản thân họ hay những người kế tục họ đã dựng lại các lớp, xác định các giaiđoạn và đặt những khám phá của mình trong các giai đoạn ấy. Chẳng hạn, LewisH.Morgan, năm 1877, phân biệt ba giai đoạn trong sự tiến hoá của của các xã hộiloài người: hoang dã, man dã và văn minh. Hai giai đoạn trước lại được chia thànhba chặng (sơ kỳ, trung kỳ và hậu kỳ). Những kỹ thuật và những thể chế tương ứngvới mỗi giai đoạn này: hoang dã hậu kỳ chứng kiến việc hái lượm và thực hànhsự chung đụng; man dã hậu kỳ biết tới nông nghiệp và đồ gốm, sống thành bộlạc và theo chế độ một vợ một chồng. Và cứ thế cho đến văn minh các quốc gia,các thành phố và của chữ viết, nghĩa là nền văn minh của chúng ta. Nhưng chươngtrình của những người theo thuyết tiến hóa không tự giới hạn vào việc mô tả, nóđụng tới cả việc thiết lập những qui luật tiến hóa văn hóa, tìm hiểu việc chuyển từgiai đoạn này sang giai đoạn khác được thực hiện như thế nào và giải thích tại saonhiều quốc gia vẫn đi sau, thậm chí còn thoái hóa. Người ta thường có lý khi lên án cái cách mà các nhà nhân học đầu tiên ấy,bằng việc lập thứ bậc cho các văn hóa, đã biện minh một cách rộng rãi công cuộcthực dân, tỏ ra khinh miệt những người nguyên thuỷ), nếu không phải là khuyếnkhích chủ nghĩa chủng tộc. Nhưng chủ nghĩa chủng t ...
Tìm kiếm theo từ khóa liên quan:
văn hóa học triết học khoa học xã hội nhân văn giá trị văn hóa bản sắc văn hóaGợi ý tài liệu liên quan:
-
27 trang 343 2 0
-
Tiểu luận triết học - Ý thức và vai trò của ý thức trong đời sống xã hội
13 trang 281 0 0 -
Tiểu luận: Lý thuyết xã hội học
40 trang 254 0 0 -
Oan và giải oan trong truyện Nghiệp oan của Đào Thị của Nguyễn Dữ
6 trang 250 0 0 -
Tiểu luận triết học - Vận dụng quan điểm cơ sở lý luận về chuyển đổi nền kinh tế thị trường
17 trang 236 0 0 -
9 trang 206 0 0
-
Tiểu luận: Tìm hiểu thực trạng giáo dục Đại Học hiện nay ở nước ta
27 trang 206 0 0 -
Tiểu luận: Ảnh hưởng của văn hóa Ấn Độ đến Đông Bắc Á
12 trang 204 0 0 -
12 trang 142 0 0
-
15 trang 136 0 0