Bệnh Zona Vi rút Zona (H.zoster) chủ yếu gây bệnh ở người già và những người bị suy giảm miễn dịch. Biểu hiện ban đầu là sốt nhẹ, nổi hạch, đau tăng dần và xuất hiện những mụn rộp ngoài da trán. Điểm đặc trưng là các mụn rộp chỉ ở nửa mặt và theo phân bố của dây thần kinh V1. Ban phát triển thành mụn rộp và mụn mủ, về sau trở nên khô, đóng vảy và để lại sẹo. Tổn thương ở mắt do Zona có thể gặp ở 50% đến 70% các trường hợp và...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
NHÃN KHOA part 9Bo Y te - Nhan khoa Page 137 of 164 Hình 16.6. Viêm giác mạc hình đĩa16.2.2. Bệnh Zona Vi rút Zona (H.zoster) chủ yếu gây bệnh ở người già và những người bị suy giảm miễn dịch. Biểuhiện ban đầu là sốt nhẹ, nổi hạch, đau tăng dần và xuất hiện những mụn rộp ngoài da trán. Điểm đặctrưng là các mụn rộp chỉ ở nửa mặt và theo phân bố của dây thần kinh V1. Ban phát triển thành mụn rộpvà mụn mủ, về sau trở nên khô, đóng vảy và để lại sẹo. Tổn thương ở mắt do Zona có thể gặp ở 50% đến70% các trường hợp và rất đa dạng: – Tổn thương giác mạc: thường gặp nhất là viêm giác mạc chấm nông hoặc viêm giác mạc dạngcành cây (khác với tổn thương hình cành cây trong bệnh Herpes, hình cành cây trong bệnh Zona ít bắtmàu fluorescein). Cũng có thể có viêm giác mạc hình đĩa hoặc viêm giác mạc dạng đồng tiền. Giác mạccó thể mất cảm giác, nguy cơ dẫn đến viêm giác mạc do dinh dưỡng thần kinh. Đôi khi có khô mắt, viêmgiác – củng mạc, loét giác mạc vùng rìa. – Viêm màng bồ đào kèm theo viêm giác mạc hoặc là xảy ra sau viêm giác mạc. – Những tổn thương khác: viêm và phù mi gây ra sụp mi, viêm kết mạc (có hột hoặc giả mạc), viêmcủng mạc, viêm thượng củng mạc, viêm võng mạc và viêm mạch máu võng mạc, viêm thị thần kinh, liệtthần kinh vận nhãn, có thể tăng nhãn áp.16.2.3. Bệnh AIDS (hội chứng suy giảm miễn dịch mắc phải) Bệnh AIDS do vi rút HIV gây ra là một bệnh nặng trong đó sự suy giảm hệ thống miễn dịch gây ranhiều nhiễm trùng cơ hội và tổn thương ác tính ở các cơ quan khác nhau của cơ thể. Những tổn thương ởmắt bao gồm: – Vết dạng bông ở võng mạc (bệnh võng mạc do AIDS): là những vết màu trắng vàng, bờ không rõdo hoại tử các sợi thần kinh võng mạc (hậu quả của thiếu máu cục bộ do tắc các mao mạch bởi các phứchợp kháng nguyên – kháng thể). Vết dạng bông có thể là tổn thương đơn độc và có ở trên 50% bệnhnhân AIDS. – Viêm võng mạc do vi rút cự bào: là nguyên nhân gây chủ yếu giảm thị lực ở bệnh nhân AIDS.Biểu hiện đầy đủ là những vùng võng mạc hoại tử rộng kèm theo xuất huyết. Võng mạc hoại tử bắt đầutừ những cung mạch lớn của võng mạc, có ranh giới rõ với võng mạc lành, tiến triển dẫn đến teo võngmạc, hoặc bong võng mạc.file:///C:/Windows/Temp/msrbkkajdp/nhan_khoa.htm 7/14/2011Bo Y te - Nhan khoa Page 138 of 164 – Sarcom Kaposi ở mi mắt hoặc kết mạc: tổn thương da là có dạng nốt màu tím đỏ, không đau, cóthể kèm theo phù. Tổn thương kết mạc thường ở cùng đồ dưới, màu đỏ sẫm, dễ nhầm với xuất huyếtdưới kết mạc. Ngoài ra có thể gặp bệnh Zona mắt, viêm giác mạc do Herpes, viêm màng bồ đào và viêm võng mạcdo Toxoplasma, liệt thần kinh vận nhãn, phù gai, teo gai, hoặc thu hẹp thị trường do tổn hại thần kinh. Hình 16.7. Viêm võng mạc do vi rút cự bào16.3. BỆNH TIM MẠCH Tổn thương mắt có thể gặp trong nhiều bệnh tim mạch như bệnh tăng huyết áp, bệnh xơ vữa độngmạch, bệnh van tim, viêm màng trong tim. Thường gặp nhất là tổn thương ở võng mạc.16.3.1. Bệnh võng mạc do tăng huyết áp Bệnh võng mạc do tăng huyết áp là bệnh tim mạch thường gặp nhất gây ra những tổn thương mắt.Tổn thương võng mạc là hậu quả của xơ cứng thành mạch và co mạch. Sự xơ cứng thành mạch làm cho thành mạch dày lên: biểu hiện bằng dấu hiệu ánh động mạch lanrộng và biến đổi ở chỗ bắt chéo động–tĩnh mạch. Khi soi đáy mắt, động mạch bình thường luôn có mộtđường trắng nhỏ ở giữa do ánh sáng phản chiếu (ánh động mạch), ánh động mạch càng ngày càng rộnghơn khi thành mạch càng dày lên, ở các giai đoạn muộn ánh động mạch gần như chiếm toàn bộ chiềurộng động mạch (hình ảnh sợi dây đồng), cuối cùng động mạch bị thay thế bởi một đường màu trắng(hình ảnh sợi dây bạc). Ở chỗ bắt chéo động – tĩnh mạch, do sự xơ cứng và tăng áp lực động mạch, tĩnhmạch bị chèn ép và giãn ở trước và sau chỗ bắt chéo có thể gây ra dấu hiệu Salus (động mạch đi ngoặtqua tĩnh mạch theo hình chữ S ở chỗ bắt chéo) hoặc dấu hiệu Gunn (tĩnh mạch như bị cắt làm đôi ở chỗbắt chéo, ở 2 bên động mạch, đầu tĩnh mạch nhọn như hình lưỡi lê). Động mạch ngoằn ngoèo, co nhỏtừng đoạn hoặc toả lan (ở nhiều vùng khác nhau của võng mạc). Xơ cứng thành mạch cũng có thể gặp ởngười già không có tăng huyết áp. Sự co mạch do tăng huyết áp kéo dài dẫn đến hoại tử các cơ trơn thành mạch và gây ra 4 loại tổnthương: – Xuất huyết trong võng mạc: nông hoặc sâu, thường có hình ngọn lửa. – Vết dạng bông: vết trắng vàng, bờ mờ, do hoại tử các sợi thần kinh võng mạc.file:///C:/Windows/Temp/msrbkkajdp/nhan_khoa.htm 7/14/2011Bo Y te - Nhan khoa Page 139 of 164 – Xuất tiết: vết màu trắng vàng, bờ rõ, thường cạnhmạch máu. Ở cực ...