Nhận thức của các lực lượng giáo dục về công tác dự báo số trẻ, số học sinh đến trường với công tác đảm bảo các điều kiện phát triển giáo dục
Số trang: 7
Loại file: pdf
Dung lượng: 309.65 KB
Lượt xem: 11
Lượt tải: 0
Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:
Thông tin tài liệu:
Bài viết trình bày về kết quả đánh giá nhận thức của các lực lượng giáo dục (cán bộ quản lí, giáo viên, nhà nghiên cứu giáo dục) về kết quả dự báo số trẻ, số học sinh đến trường với công tác đảm bảo các điều kiện phát triển giáo dục tại Việt Nam.
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Nhận thức của các lực lượng giáo dục về công tác dự báo số trẻ, số học sinh đến trường với công tác đảm bảo các điều kiện phát triển giáo dục Huỳnh Văn SơnNhận thức của các lực lượng giáo dục về công tácdự báo số trẻ, số học sinh đến trường với công tácđảm bảo các điều kiện phát triển giáo dụcHuỳnh Văn SơnTrường Đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh TÓM TẮT: Bài viết trình bày về kết quả đánh giá nhận thức của các lực lượng280, An Dương Vương, Phường 4, giáo dục (cán bộ quản lí, giáo viên, nhà nghiên cứu giáo dục) về kết quả dựQuận 5, Thành phố Hồ Chí Minh, Việt NamEmail: sonhv@hcm.edu.vn báo số trẻ, số học sinh đến trường với công tác đảm bảo các điều kiện phát triển giáo dục tại Việt Nam. Khảo sát 6300 nhà quản lí và giáo viên các cấp, 150 giảng viên và nhà nghiên cứu giáo dục, 120 cán bộ quản lí các cấp, người nghiên cứu phát hiện nhiều minh chứng đáng quan tâm, kết quả phản ánh nhận thức của các lực lượng giáo dục về công tác dự báo số trẻ, số học sinh đến trường còn hạn chế. Do đó, khắc phục sự hạn chế về quan điểm là giải pháp cần thiết triển khai để đảm bảo các điều kiện phát triển giáo dục ở nước ta. TỪ KHÓA: Nhận thức; lực lượng giáo dục; dự báo số trẻ - số học sinh đến trường; các điều kiện phát triển giáo dục. Nhận bài 18/5/2020 Nhận bài đã chỉnh sửa 01/6/2020 Duyệt đăng 15/9/2020. 1. Đặt vấn đề cần thiết trong bài toán đáp ứng các điều kiện phát triển Quan niệm về điều kiện phát triển giáo dục phổ thông giáo dục. Dựa trên nền tảng đó, đề xuất giải pháp (tiếp(GDPT) ở các quốc gia trên thế giới phụ thuộc vào mục cận chính sách vĩ mô hay các yêu cầu vi mô) nhằm giảitiêu giáo dục (GD) riêng của từng quốc gia.Trong khi quyết tình hình hiện tại và đáp ứng nâng cao theo lộ trìnhđó, bộ tiêu chuẩn kiểm định chất lượng GDPT ở mỗi dự báo cũng như tầm nhìn tương lai là cái nhìn khoa học,quốc gia cũng sẽ phản ánh đặc trưng riêng tùy theo các hiện đại và nhân văn (Van, Minh, Vinh, Vinh & Thien,mục tiêu GDPT riêng ở từng nước (Zhang & Wei, 2017). 2019). Đảm bảo điều kiện phát triển GD nước ta là trọngChẳng hạn như ở Hoa Kì, mục tiêu chính của GDPT ở trách của ngành GD và đào tạo cũng như của nhà quảnHoa Kì là GD những công dân toàn diện, trong đó tập lí, từng nhà giáo và các lực lượng có liên quan. Việc đảmtrung vào bốn khía cạnh: Kiến thức chuyên môn; định bảo điều kiện phát triển GD dựa trên các luận cứ, các cơhướng nghề nghiệp; tính xã hội, công dân, văn hóa và sở khoa học là vô cùng quan trọng. Một trong những thaophát triển cá nhân. Vì vậy, các tiêu chuẩn đánh giá chất tác cần thực hiện đó là dự báo số trẻ, số HS đến trườnglượng GD ở Hoa Kì thường nhấn mạnh vào người học và (Chính phủ, 2012). Yêu cầu này không chỉ thực hiện vớinăng lực của người học. Các điều kiện phát triển GDPT trẻ mầm non - GD tiền học đường mà còn ở tất cả cácở Hoa Kì theo quan điểm đảm bảo chất lượng theo đó độ tuổi đến trường của HS đều cần được dự báo thườngcũng bao gồm các nội dung về đảm bảo điều kiện phát xuyên và chủ động hơn. Trong bài viết này, chúng tôi sẽ tập trung vào việc tìm hiểu nhận thức của đội ngũ cántriển người học và năng lực người học. GD Hoa Kì vốn bộ quản lí (CBQL) các cấp, đội ngũ giáo viên (GV) vàđược xem là có tính phân quyền rất mạnh nên các vấn đề nhà nghiên cứu về vai trò của công tác dự báo số trẻ, sốGD cũng không được đề cập cụ thể trong Hiến pháp Hoa HS đến trường và đảm bảo các điều kiện phát triển GDKì mà được xem là các vấn đề thuộc trách nhiệm của các Việt Nam.tiểu bang (Singh, 2018). Không thể phủ nhận việc chuẩn bị cá ...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Nhận thức của các lực lượng giáo dục về công tác dự báo số trẻ, số học sinh đến trường với công tác đảm bảo các điều kiện phát triển giáo dục Huỳnh Văn SơnNhận thức của các lực lượng giáo dục về công tácdự báo số trẻ, số học sinh đến trường với công tácđảm bảo các điều kiện phát triển giáo dụcHuỳnh Văn SơnTrường Đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh TÓM TẮT: Bài viết trình bày về kết quả đánh giá nhận thức của các lực lượng280, An Dương Vương, Phường 4, giáo dục (cán bộ quản lí, giáo viên, nhà nghiên cứu giáo dục) về kết quả dựQuận 5, Thành phố Hồ Chí Minh, Việt NamEmail: sonhv@hcm.edu.vn báo số trẻ, số học sinh đến trường với công tác đảm bảo các điều kiện phát triển giáo dục tại Việt Nam. Khảo sát 6300 nhà quản lí và giáo viên các cấp, 150 giảng viên và nhà nghiên cứu giáo dục, 120 cán bộ quản lí các cấp, người nghiên cứu phát hiện nhiều minh chứng đáng quan tâm, kết quả phản ánh nhận thức của các lực lượng giáo dục về công tác dự báo số trẻ, số học sinh đến trường còn hạn chế. Do đó, khắc phục sự hạn chế về quan điểm là giải pháp cần thiết triển khai để đảm bảo các điều kiện phát triển giáo dục ở nước ta. TỪ KHÓA: Nhận thức; lực lượng giáo dục; dự báo số trẻ - số học sinh đến trường; các điều kiện phát triển giáo dục. Nhận bài 18/5/2020 Nhận bài đã chỉnh sửa 01/6/2020 Duyệt đăng 15/9/2020. 1. Đặt vấn đề cần thiết trong bài toán đáp ứng các điều kiện phát triển Quan niệm về điều kiện phát triển giáo dục phổ thông giáo dục. Dựa trên nền tảng đó, đề xuất giải pháp (tiếp(GDPT) ở các quốc gia trên thế giới phụ thuộc vào mục cận chính sách vĩ mô hay các yêu cầu vi mô) nhằm giảitiêu giáo dục (GD) riêng của từng quốc gia.Trong khi quyết tình hình hiện tại và đáp ứng nâng cao theo lộ trìnhđó, bộ tiêu chuẩn kiểm định chất lượng GDPT ở mỗi dự báo cũng như tầm nhìn tương lai là cái nhìn khoa học,quốc gia cũng sẽ phản ánh đặc trưng riêng tùy theo các hiện đại và nhân văn (Van, Minh, Vinh, Vinh & Thien,mục tiêu GDPT riêng ở từng nước (Zhang & Wei, 2017). 2019). Đảm bảo điều kiện phát triển GD nước ta là trọngChẳng hạn như ở Hoa Kì, mục tiêu chính của GDPT ở trách của ngành GD và đào tạo cũng như của nhà quảnHoa Kì là GD những công dân toàn diện, trong đó tập lí, từng nhà giáo và các lực lượng có liên quan. Việc đảmtrung vào bốn khía cạnh: Kiến thức chuyên môn; định bảo điều kiện phát triển GD dựa trên các luận cứ, các cơhướng nghề nghiệp; tính xã hội, công dân, văn hóa và sở khoa học là vô cùng quan trọng. Một trong những thaophát triển cá nhân. Vì vậy, các tiêu chuẩn đánh giá chất tác cần thực hiện đó là dự báo số trẻ, số HS đến trườnglượng GD ở Hoa Kì thường nhấn mạnh vào người học và (Chính phủ, 2012). Yêu cầu này không chỉ thực hiện vớinăng lực của người học. Các điều kiện phát triển GDPT trẻ mầm non - GD tiền học đường mà còn ở tất cả cácở Hoa Kì theo quan điểm đảm bảo chất lượng theo đó độ tuổi đến trường của HS đều cần được dự báo thườngcũng bao gồm các nội dung về đảm bảo điều kiện phát xuyên và chủ động hơn. Trong bài viết này, chúng tôi sẽ tập trung vào việc tìm hiểu nhận thức của đội ngũ cántriển người học và năng lực người học. GD Hoa Kì vốn bộ quản lí (CBQL) các cấp, đội ngũ giáo viên (GV) vàđược xem là có tính phân quyền rất mạnh nên các vấn đề nhà nghiên cứu về vai trò của công tác dự báo số trẻ, sốGD cũng không được đề cập cụ thể trong Hiến pháp Hoa HS đến trường và đảm bảo các điều kiện phát triển GDKì mà được xem là các vấn đề thuộc trách nhiệm của các Việt Nam.tiểu bang (Singh, 2018). Không thể phủ nhận việc chuẩn bị cá ...
Tìm kiếm theo từ khóa liên quan:
Nghiên cứu giáo dục Quản lý giáo dục Lực lượng giáo dục Dự báo số trẻ - số học sinh đến trường Điều kiện phát triển giáo dụcGợi ý tài liệu liên quan:
-
174 trang 292 0 0
-
26 trang 220 0 0
-
6 trang 219 0 0
-
122 trang 212 0 0
-
119 trang 209 0 0
-
Tiểu luận: Tìm hiểu thực trạng giáo dục Đại Học hiện nay ở nước ta
27 trang 206 0 0 -
98 trang 197 0 0
-
162 trang 190 0 0
-
132 trang 167 0 0
-
6 trang 164 0 0