Danh mục

Nhiễm virus BK ở trẻ em ghép thận tại Bệnh viện Nhi đồng 2

Số trang: 6      Loại file: pdf      Dung lượng: 487.51 KB      Lượt xem: 11      Lượt tải: 0    
10.10.2023

Hỗ trợ phí lưu trữ khi tải xuống: 4,000 VND Tải xuống file đầy đủ (6 trang) 0
Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:

Thông tin tài liệu:

Bài viết tập trung khảo sát tình trạng nhiễm virus BK ở trẻ em ghép thận tại Bệnh viện Nhi đồng 2. Kết quả cho thấy từ năm 1994 - 2014 đã thực hiện ghép trên 15 bệnh nhân nhi. 4 bệnh nhân bị nhiễm virut BK thông qua kết quả PCR máu và nước tiểu. 2 trường hợp có tổn thương trên mô sinh thiết thận, nhưng không có trường hợp nào dương tính với SV 40. Điều trị bao gồm thay đổi chế độ thuốc ức chế miễn dịch và phối hợp truyền tĩnh mạch immunoglobuline. Sau 1 năm, tải lượng virus giảm đáng kể và chức năng thận có hồi phục.
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Nhiễm virus BK ở trẻ em ghép thận tại Bệnh viện Nhi đồng 2 TẠP CHÍ Y - DƯỢC HỌC QUÂN SỰ SỐ CHUYÊN ĐỀ GHÉP TẠNG - 2018 NHIỄM VIRUT BK Ở TRẺ EM GHÉP THẬN TẠI BỆNH VIỆN NHI ĐỒNG 2 Hoàng Thị Diễm Thúy1 TÓM TẮT Mục tiêu: khảo sát tình trạng nhiễm virut BK ở trẻ em ghép thận tại Bệnh viện Nhi đồng 2. Phương pháp: mô tả hàng loạt ca. Kết quả: từ năm 1994 - 2014, chúng tôi thực hiện ghép trên 15 bệnh nhân nhi. 4 bệnh nhân bị nhiễm virut BK thông qua kết quả PCR máu và nước tiểu. 2 trường hợp có tổn thương trên mô sinh thiết thận, nhưng không có trường hợp nào dương tính với SV 40. Điều trị bao gồm thay đổi chế độ thuốc ức chế miễn dịch và phối hợp truyền tĩnh mạch immunoglobuline. Sau 1 năm, tải lượng virut giảm đáng kể và chức năng thận có hồi phục. Kết luận: cần tầm soát chặt chẽ virut BK sau ghép thận để kịp thời có biện pháp can thiệp sớm. Việc giảm các thuốc ức chế miễn dịch thường mang lại kết quả khả quan gần, tuy nhiên cần theo dõi thải ghép. Các nhà lâm sàng thận học nhi cần có thêm nhiều kinh nghiệm thực tế và nghiên cứu để đưa ra phác đồ điều trị thích hợp thích hợp trong bối cảnh nước ta. * Từ khóa: Ghép thận; Virut BK; Trẻ em. BK Virus Infection in Kidney Transplanted Chidren at Children Hospital 2 Summary Objectives: To study BK virus infection in kidney transplanted children at Children Hospital 2. Methods: Cases series study. Results: From 1994 to 2014, we transplanted 15 childrens. There were 4 children who were diagnosed BK virus infection by PCR assay in plasma and urine. We had found the lesions on the transplant biopsy in 2 cases, but none of them presented SV 40 by immunofluorescence method. The treatment composed of the reduction immunosuppressors and intravenous immunoglobuline. After one year, the viral load decreased and the renal function improved. Conclusion: The screening for BK virus posttransplant is important to have an early intervention. The reduction of immunosuppressors usually gave a good result in shortterm providing that a strict survey for rejection. The pediatric nephrologists need more experiences to be able to choose an appropriate strategy with BK virus in Vietnam. * Keywords: Kidney transplantation; BK virus; Children. ĐẶT VẤN ĐỀ Virut BK thuộc họ Polyoma virut, được nhận biết là một tác nhân gây nhiễm trùng cơ hội quan trọng và có tần suất cao ở thận ghép. Sau khi sơ nhiễm, virut BK tồn tại trong tế bào biểu mô hệ niệu (95%) và tế bào ống thận (5%). Kháng thể kháng virut BK được tìm thấy ở 50% trẻ 3 tuổi, 60 - 90% ở trẻ 10 tuổi và 80 - 90% lứa tuổi 20 [9]. 1. Bệnh viện Nhi đồng 2 Người phản hồi (Corresponding): Hoàng Thị Diễm Thúy (thuydiemhoanglp@gmail.com) Ngày nhận bài: 21/08/2018; Ngày phản biện đánh giá bài báo: 28/09/2018 Ngày bài báo được đăng: 03/10/2018 90 TẠP CHÍ Y - DƯỢC HỌC QUÂN SỰ SỐ CHUYÊN ĐỀ GHÉP TẠNG - 2018 Ở bệnh nhi (BN) ghép thận, 20 - 40% BN có huyết thanh chẩn đoán âm tính tại thời điểm ghép, so với dân số người cho vốn có tần suất virut BK dương tính rất cao. Theo thống kê từ NAPRTS, tỷ lệ bệnh thận do virut BK sau ghép thận ở trẻ em là 3,8%, 24% bị mất thận ghép [7]. Cho đến nay, vấn đề nhiễm virut BK trên BN ghép thận vẫn còn ít được đánh giá và thống nhất trong xử trí [9]. Chúng tôi thực hiện nghiên cứu nhằm: Khảo sát tình trạng nhiễm virut BK sau ghép thận trên tất cả BN được ghép thận từ năm 1994 - 2014 tại Bệnh viện Nhi Đồng 2 nhằm có cái nhìn rõ hơn về phát hiện và điều trị virut BK trên trẻ em. ĐỐI TƢỢNG VÀ PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 1. Đối tƣợng nghiên cứu. 15 bệnh nhân nhi ghép thận tại Bệnh viện Nhi đồng 2 từ 1994 - 2014. 2. Phƣơng pháp nghiên cứu. Phương pháp tầm soát virut BK của nghiên cứu này được thực hiện thay đổi theo từng giai đoạn: - Trước năm 2000: dựa vào tầm soát tế bào bẫy (decoy cell) trong nước tiểu mỗi 3 tháng trong năm đầu, sau đó mỗi năm 1 lần hoặc khi có tăng creatinin máu trên mức nền 30%. - Từ năm 2000: các BN đã ghép cũ được xét nghiệm PCR virut BK máu và nước tiểu khi có tăng creatinin máu trên mức nền 30%. BN ghép mới được tầm soát virut BK máu và/hoặc nước tiểu vào các thời điểm 3 tháng, 6 tháng, 12 tháng, sau đó khi có tăng creatinin máu trên mức nền 30%. - Miễn dịch huỳnh quang với SV 40 mới được triển khai cho sinh thiết thận ghép từ năm 2015, từ đó sinh thiết thận được xem là xét nghiệm hỗ trợ chẩn đoán xác định cho bệnh thận do BK. Trước năm 2015 chưa làm được kỹ thuật này, nhưng với trường hợp tăng creatinin máu không do nguyên nhân niệu khoa, chúng tôi cũng tiến hành sinh thiết thận ghép để xác định thải ghép. - Xét nghiệm PCR virut BK thực hiện tại Phòng Xét nghiệm CERBA (Pháp). Độ phát hiện virut trong máu khi ≥ 44 eq-gen/ml. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU Từ năm 1994 - 2014, chúng tôi đã thực hiện ghép cho 15 BN. Chế độ thuốc ức chế miễn dịch cơ bản cho tất cả BN bao gồm: baxilisimab, steroids, mycophenolate mofetil, ức chế calcineurine với cyclosporine A ở 3 BN ghép trước năm 1997 và prograf ở 12 BN còn lại. 4 bệnh nhân bị nhiễm virut BK thông qua kết quả PCR máu và nước ...

Tài liệu được xem nhiều: