Thông tin tài liệu:
Dường như tiền mặt luôn là một cái gì đó mà ai cũng thích sở hữu, doanh nghiệp cũng vậy. Thế nhưng việc doanh nghiệp có quá nhiều tiền mặt liệu có phải là một điều tốt?húng ta biết rằng hầu hết các doanh nghiệp vận hành đều chú ý sử dụng lợi ích từ việc vay nợ. Trong điều kiện hoạt động bình thường, tài trợ bằng nợ có thể giúp doanh nghiệp gia tăng khả năng sinh lợi, thế nhưng nhà đầu tư nào cũng biết đến mặt trái của nợ. Khi mọi thứ không diễn biến như...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Nhiều tiền mặt chưa chắc đã tốt Nhiều tiền mặt chưa chắc đã tốtDường như tiền mặt luôn là một cái gì đó mà ai cũng thích sở hữu, doanh nghiệp cũngvậy. Thế nhưng việc doanh nghiệp có quá nhiều tiền mặt liệu có phải là một điều tốt?Chúng ta biết rằng hầu hết các doanh nghiệp vận hành đều chú ý sử dụng lợi ích từ việcvay nợ. Trong điều kiện hoạt động bình thường, tài trợ bằng nợ có thể giúp doanh nghiệpgia tăng khả năng sinh lợi, thế nhưng nhà đầu tư nào cũng biết đến mặt trái của nợ. Khimọi thứ không diễn biến như các kế hoạch, thì nợ có thể khiến doanh nghiệp gặp vấn đềnghiêm trọng.Thế còn vị thế tiền mặt của doanh nghiệp thì sao? Qúa nhiều nợ chắc chắn làmột điều không tốt, liệu điều đó có đúng với tiền mặt?Trước tiên, có vẻ như nhà đầu tư luôn tìm kiếm các doanh nghiệp có lượngtiền mặt dồi dào thể hiện trên bảng cân đối kế toán, bởi vì họ tin rằng nhiềutiền mặt sẽ giúp doanh nghiệp xử lý một cách dễ dàng nếu các kế hoạch kinhdoanh đang xấu đi và nó cũng cho doanh nghiệp nhiều sự lựa chọn hơn trongviệc tìm kiếm các cơ hội đầu tư trong tương lai.Thật không may, chẳng có gì là đơn giản, tiền mặt cũng vậy. Lượng tiền mặttrên bảng cân đối kế toán của mỗi doanh nghiệp sẽ được nhà đầu tư hiểu vớinhiều các tác động tín hiệu khác nhau: gồm cả tín hiệu tốt và tín hiệu xấu. Dĩnhiên là nếu hiểu rõ được nguồn hình thành các khoản tiền mặt cho doanhnghiệp, loại hình doanh nghiệp và các kế hoạch mà các nhà quản trị đang dựđịnh thực hiện sẽ giúp nhà đầu tư có cái nhìn chuẩn xác hơn.Các lý thuyết tài chính doanh nghiệp nói rằng mỗi doanh nghiệp nên có mộtmức tiền mặt thích hợp cho doanh nghiệp mình, một lượng đủ để thanh toánlãi vay, các chi phí và chi tiêu vốn, ngoài ra còn phải dự trữ thêm một ít nữađể doanh nghiệp kịp xử lý trong những t ình huống khẩn cấp. Nhà đầu tư cóthể tính toán chỉ số thanh toán hiện hành và chỉ số thanh toán nhanh củadoanh nghiệp để xác định khả năng doanh nghiệp có thể đáp ứng các nghĩavụ tài chính đến hạn hay không? Dĩ nhiên là các nghĩa vụ này phải trả bằngtiền mặt.Theo lý luận, nếu doanh nghiệp có bất cứ một lượng tiền mặt nào cao hơnmức cần thiết đó thì lượng tiền mặt đó nên được phân phối lại cho các cổđông thông qua cổ tức hoặc mua lại cổ phần. Sau đó, nếu các nhà quản trịtìm thấy các cơ hội đầu tư mới, họ có thể ra thị trường vốn phát hành cổphần để huy động lượng vốn cần thiết.Thực tế thì việc doanh nghiệp có nhiều tiền mặt cũng có những điểm tốt.Nhà đầu tư không phải là người bên trong doanh nghiệp nên thông thườngnếu nhìn thấy khoản mục tiền mặt trên bảng cân đối kế toán nhiều bao giờcũng yên tâm hơn so với các doanh nghiệp có lượng tiền mặt ít hơn. Nhất làkhi qua các quý, hoặc qua các năm, lượng tiền mặt tăng lên đều đặn và ổnđịnh, nó là một tín hiệu cho thấy doanh nghiệp đang hoạt động rất tốt, đangphát triển rất mạnh. Tiền mặt tích lũy quá nhanh đến mức các nhà quản trịkhông kịp có thời gian để lên kế hoạch sử dụng chúng sao cho có hiệu quảnhất.Microsoft là một thí dụ. Trong ngành công nghiệp sản xuất phần mềm, có lẽtên tuổi của Microsoft đã nổi tiếng toàn thế giới. Microsoft hoạt động quá tốtđến mức dòng tiền mặt hằng năm luôn nhiều hơn 40 tỷ USD. Do doanh thuvẫn tiếp tục tăng trưởng mạnh và tiền mặt cứ thế tăng lên nhanh chóng. Cácdoanh nghiệp thành công khác trong các ngành như sản xuất phần mềm vàdịch vụ, giải trí và truyền thông thường không bị đòi hỏi về chi tiêu vốnnhiều như các công ty trong các ngành thâm dụng vốn.Vì vậy, tiền mặt của các doanh nghiệp ấy cứ thế tăng lên. Trong khi đó, cácdoanh nghiệp phải chi tiêu vốn nhiều như các nhà sản xuất thép, phải thườngxuyên đầu tư rất nhiều cho các trang thiết bị, dây chuyền sản xuất và nguyênvật liệu sản xuất. Các doanh nghiệp trong các ngành thâm dụng vốn như vậythường cần duy trì lượng tiền mặt cần thiết trong một thời gian dài hơn bởivì vòng quay tiền mặt của chúng không thể nhanh như các doanh nghiệptrong các ngành khác. Hơn thế nữa, nhàđầu tư nên biết rằng các doanh nghiệp trong các ngành sản xuất, dịch vụ cótính chu kỳ thì cần duy trì lượng tiền mặt nhiều để vượt qua giai đoạn đixuống của chu kỳ sản xuất. Ví dụ như Boeing hay BMW, lượng cầu đối vớicác mặt hàng này thường tăng cao trong một thời điểm nhất định của chu kỳkinh doanh và sau đó họ lại phải đối mặt với giai đoạn khác của chu kỳkhiến cho lượng tiền mặt bị sụt giảm nhanh chóng. Do đó, đối với các doanhnghiệp như vậy thì họ cần có một lượng tiền mặt dự trữ nhiều hơn mức cầnthiết để đáp ứng cho các nghĩa vụ ngắn hạn của họ.Nói như thế không có nghĩa là bao giờ có nhiều tiền mặt hơn mức lý thuyếtđưa ra cũng tốt. Một mức tiền mặt cao thể hiện trong bảng cân đối kế toán cóthể khiến cho nhà đầu tư đặt câu hỏi, nhất là khi lượng tiền mặt đột nhiêncao hơn mức bình thường. Tại sao các nhà quản trị lại để tiền mặt ở đó màkhông đem đi sử dụng? Nhà đầu tư có quyền nghi ngờ vì doanh nghiệp đãmấ ...