Danh mục

Những Bí Mật Về Chiến Tranh Việt Nam - Chương 32 Kết thúc một phiên toà

Số trang: 12      Loại file: pdf      Dung lượng: 191.07 KB      Lượt xem: 9      Lượt tải: 0    
10.10.2023

Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:

Thông tin tài liệu:

Ngày 27-4-1973, mở màn ngày xét xử thứ tám mươi Anthony Russo và tôi, thẩm phán Mathew Byrne chuyển cho bên bị cáo một bản ghi nhớ nhận từ Bộ Tư pháp ngày hôm trước. Ghi nhớ này đề ngày 16-4 của công tố viên trong vụ Watergate, Earl Silbert gửi cho trợ lý Bộ trưởng Tư pháp Henry E. Petersen. Ghi nhớ mở đầu: "Tôi xin thông báo rằng ngày chủ nhật, 15-4-1973, tôi nhận được tin vào một thời gian chưa xác định, Gordon Liddy và Howard Hunt đã đột nhập vào văn phòng bác sĩ tâm thần...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Những Bí Mật Về Chiến Tranh Việt Nam - Chương 32 Kết thúc một phiên toàNhững Bí Mật VềChiến Tranh Việt Nam Chương 32 Kết thúc một phiên toàNgày 27-4-1973, mở màn ngày xét xử thứ tám mươi Anthony Russo và tôi, thẩm phánMathew Byrne chuyển cho bên bị cáo một bản ghi nhớ nhận từ Bộ Tư pháp ngày hômtrước. Ghi nhớ này đề ngày 16-4 của công tố viên trong vụ Watergate, Earl Silbert gửicho trợ lý Bộ trưởng Tư pháp Henry E. Petersen. Ghi nhớ mở đầu:Tôi xin thông báo rằng ngày chủ nhật, 15-4-1973, tôi nhận được tin vào một thời gianchưa xác định, Gordon Liddy và Howard Hunt đã đột nhập vào văn phòng bác sĩ tâmthần của Daniel Ellsberg tìm kiếm bệnh án của ông ta.Nhân lúc không có mặt bồi thẩm đoàn, các nhà báo được thông báo nội dung bức điệnnày. Họ ngay lập tức đổ xô đến bên các máy điện thoại ngoài hành lang. Đây là lần đầutiên tôi nhìn thấy các phóng viên ngoài đời chạy đua để đưa tin, giống hệt trong các bộphim ngày trước. Như lời một nhà báo, họ đang phác ra trong đầu những hàng tít trêntrang nhất như là Vụ Watergate so găng với vụ Hồ sơ Lầu Năm Góc.Dư luận và báo giới cũng đã biết đến Hunt và Liddy, dù không thật nhiều bằng thời gianhai tuần cuối cùng của phiên toà của chúng tôi khi vai trò của họ trong vụ đột nhập tạikhách sạn Watergate bị phanh phui. Cũng như thế với ba người Mỹ gốc Cuba, tất cả đềulà các cựu chiến binh trong cuộc chiến Vịnh Con Lợn và là những tài sản của CIA kể từcuộc chiến tranh đó. Ba người đó nhanh chóng bị phát giác đột nhập vào văn phòng bácsỹ Fielding theo sự chỉ đạo của Hunt và Liddy.Bemard Barker và Eugenio Martinez bị bắt giữ ngay tại văn phòng của Uỷ ban Quốc giaĐảng Dân chủ ở khách sạn Watergate trong ngày 17--7-1972. (Còn lại Felipe de Diego,anh ta cũng tham gia vào vụ trộm hồi tháng Năm tại khách sạn này). Cả Hunt, Barker vàMartinez đều đã nhận tội, còn Liddy đã bị buộc tội đột nhập vào Watergate tại phiên toàtháng 3-1973 diễn ra ở Washington, một tháng trước khi có tuyên bố của thẩm phánByrne về vụ án của tôi. Nhà Trắng liên tiếp chối bỏ bất kỳ liên hệ nào với một vụ trộmhạng bét kiểu như thế này, còn các bị cáo cũng không hề biết một dây liên lạc nào tớicấp cao hơn hay những vi phạm khác nữa, kể cả khi phải trả lời và đã tuyên thệ trước Đạibồi thẩm đoàn và được hưởng quyền miễn trừ truy tố.Giả thuyết được Silbert đưa ra về vụ trộm tại khách sạn Watergate là Liddy đã thuê Huntvà bốn người bị bắt tại khách sạn để giải quyết công chuyện riêng của ông ta. Liddytrước là một nhân viên của FBI, còn hiện giờ là cố vấn pháp lý của CREEP, Uỷ ban tái cửtổng thống (Nixon). Tuy nhiên thẩm phán Byrne không đồng t ình với cách giải thích nhưvậy, bởi vì trong vật dụng cá nhân của những t ên trộm này thấy ghi chép địa chỉ vănphòng làm việc của Hunt ở Toà nhà Văn phòng Hành pháp. Hơn nữa, ông ta cùng tất cảnhững người liên quan khác, trừ Liddy ra đều là nhân viên hoặc chính thức hoặc hợpđồng của CIA. Nghi ngờ là vậy, nhưng thẩm phán vẫn không dám chắc chắn cho mãi đếnkhi bị cáo James McCord, từng là một nhân viên an ninh cao cấp của CIA đã chuyểnsang làm việc cho CREEP, gửi lên cho ông một tin nhắn trước giờ luận tội, báo cho thẩmphán hay rằng có người đã khai man trước toà và còn có nhiều người khác tham gia chỉđạo vụ trộm tại Watergate. Tuy nhiên, McCord cũng không hay biết gì về liên can củaNhà Trắng.Sau khi đọc bức thư của Silbert, thẩm phán Byrne yêu cầu công tố viên nhanh chóng traocho ông trả lời của chính phủ về một loạt các nghi vấn, như là Hunt và Liddy tiến hànhvụ trộm với tư cách là các nhân viên của chính phủ? Vụ trộm do ai dàn dựng?Thứ hai, ngày 30 tháng tư, thẩm phán Byrne nhận được báo cáo của FBI về cuộc phỏngvấn mới ngày 27-4 với John Ehrlichman, qua đó công khai sự tồn tại của đơn vị điều trađặc biệt, Nhóm thợ sửa ống nước mà Ehrlichman quản lý và nhận lệnh từ Tổng thống.Câu hỏi đầu tiên của thẩm phán Byrne đã được trả lời: Hunt và Liddy, làm việc cho NhàTrắng, đang theo đuổi một kế hoạch nhắm chủ yếu vào tôi. Kế hoạch này bắt đầu theoyêu cầu của Tổng thống, không lâu sau khi tôi bị buộc tội. Hai người đã dàn dựng độtnhập văn phòng vị bác sĩ phân tâm, Lewis Fielding ở Beverly Hills ngày 3--9-1971 trongthời gian nghỉ lễ Ngày Lao động. Đây là lần đầu tiên có những quan chức trong chínhquyền - cụ thể là Ehrlichman và Cố vấn pháp lý Nhà Trắng John Dean. Dean đã có nhữngtiết lộ với công tố viên trong ngày 15 tháng tư - công khai thừa nhận sự chỉ đạo của NhàTrắng đối với một hành vi phạm pháp đã rõ như ban ngày. Ít nhất thì cũng rõ ràng trongmắt tất cả những người (trừ Ehrlichman và Nixon) không nghĩ rằng cái cớ bảo vệ an ninhquốc gia có thể lấp liếm tất cả những nghi vấn về tính hợp pháp của các hành động thựchiện nhân danh chính quyền này.Tối hôm đó, 30-4, Tổng thống Nixon thông báo Ehrlichman và H. R. Haldeman, ChánhVăn phòng Nhà Trắng - hai trong số những công chức xuất sắc nhất mà tôi từng biết -và Richard Kleindienst, quyền ...

Tài liệu được xem nhiều: