NHỮNG KHÁC BIỆT GIỮA LUẬT THƯƠNG MẠI VIỆT NAM VÀ CÁC CHẾ ĐỊNH PHÁP LUẬT THƯƠNG MẠI CÁC NƯỚC
Số trang: 65
Loại file: pdf
Dung lượng: 727.96 KB
Lượt xem: 8
Lượt tải: 0
Xem trước 7 trang đầu tiên của tài liệu này:
Thông tin tài liệu:
Sự xuất hiện của luật kinh tế với tính cách là một ngành luật độc lập, theo quan niệm của các luật gia ở Việt Nam, đã càng làm phức tạp thêm cho sự phân biệt và mối quan hệ giữa luật thương mại và luật dân sự mà các luật gia trên thế giới đã dày công nghiên cứu. Vấn đề phân chia các ngành luật được coi là một công việc rất cần thiết trong khoa học pháp lý không chỉ được đặt ra với các nước theo Civil Law, Sovietique Law mà còn được đặt ra một...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
NHỮNG KHÁC BIỆT GIỮA LUẬT THƯƠNG MẠI VIỆT NAM VÀ CÁC CHẾ ĐỊNH PHÁP LUẬT THƯƠNG MẠI CÁC NƯỚC NHỮNG KHÁC BIỆT GIỮA LUẬT THƯƠNG MẠI VIỆT NAM VÀ CÁC CHẾ ĐỊNH PHÁP LUẬT THƯƠNG MẠI CÁC NƯỚC Người thực hiện : PGS.TS. Nguyễn Như Phát TS. Ngô Huy Cương PHẦN I SO SÁNH NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG CỦA LUẬT THƯƠNG MẠI 1.1.SỰ PHÂN BIỆT VÀ MỐI QUAN HỆ GIỮA LUẬT DÂN SỰ, LUẬT THƯƠNG MẠI, VÀ LUẬT KINH TẾ Sự xuất hiện của luật kinh tế với tính cách là một ngành luật độc lập, theo quan niệm của các luật gia ở Việt Nam, đã càng làm phức tạp thêm cho sự phân biệt và mối quan hệ giữa luật thương mại và luật dân sự mà các luật gia trên thế giới đã dày công nghiên cứu. Vấn đề phân chia các ngành luật được coi là một công việc rất cần thiết trong khoa học pháp lý không chỉ được đặt ra với các nước theo Civil Law, Sovietique Law mà còn được đặt ra một cách rất nghiêm túc với các nước theo Common Law và các hệ thống pháp luật khác. Tuy nhiên việc phân chia các ngành luật hay phân loại pháp luật là một vấn đề phức tạp, tế nhị và gây nhiều tranh luận. Ngay Nhật Bản- một nước phát triển đứng hàng thứ hai thế giới đã hết sức chú ý tới việc xây dựng một hệ thống pháp luật hiện đại, nhưng có thể nói cho tới nay 'chưa có quan điểm thống nhất về vấn đề phân loại các ngành luật' 1. 1. Nhằm mục đích của đề tài này, chúng tôi cố gắng tiếp cận vấn đề phân chia các ngành luật hay phân loại pháp luật một cách ngắn gọn nhất. Nhưng trước tiên nên bắt đầu từ một đặc thù của Việt Nam với ngành luật kinh tế. Theo giáo sư Tsuneo Inako, thuật ngữ luật kinh tế có lẽ xuất hiện và có chỗ đứng ở Nhật Bản dưới chủ nghĩa tư bản độc quyền, mặc dù còn có nhiều ý kiến khác nhau xung quanh việc vạch ra phạm vi của luật kinh tế 2. Tại đây ông nhấn mạnh tới tính chất ra đời muộn mằn của luật kinh tế so với luật thương mại- đặc trưng của kinh tế thị trường. Ở phía khác, chúng tôi đã khẳng định khái niệm luật kinh tế hay lĩnh vực luật kinh tế đã ra đời trước khi có sự hiện diện của chủ nghĩa xã hội hiện thực. Nhưng 'luật kinh tế khởi sinh trong khu vực luật công' và 'cho đến nay, các học giả tư sản vẫn chưa có quan niệm thống nhất về luật kinh tế khi đi tìm biên giới về đối tượng điều chỉnh của lĩnh vực pháp luật này'3. Luật thực định ở nhiều quốc gia có các quy định về kinh tế, chẳng hạn như ở Hoa kỳ trong các đạo luật về chuyên ngành thường có các quy định với tên gọi là 'Economic Regulations'. Lưu ý rằng các luật mà có các quy định như vậy thường là các luật phức hợp mà ở trong đó tồn tại cả các quy tắc của cả luật công và luật tư (như luật hàng không, luật hàng hải, luật bưu chính- viễn thông...). 1 . Tsuneo Inako- Tìm hiểu pháp luật Nhật Bản- NXB Khoa học xã hội- Hà nội 1993- tr.195-196. 2 . Tsuneo Inako- Tìm hiểu pháp luật Nhật Bản- NXB Khoa học xã hội- Hà nội-1993- Tr.196. 3 PGS. TS. Nguyễn Như Phát- Lý luận chung về luật kinh tế- Giáo trình luật kinh tế Việt nam- NXB Đại học Quốc gia Hà Nội-1997-tr5-6. 2 Các quy định về kinh tế này biểu hiện sự can thiệp trực tiếp của nhà nước vào quá trình kinh tế- xã hội làm thay đổi tình trạng pháp lý của chủ thể, hay nói cách khác, làm phát sinh hậu quả pháp lý trực tiếp mà chủ thể có thể được hưởng quyền lợi hay bị cắt giảm, triệt tiêu về mặt lợi ích do sự can thiệp này. Các quy định đó không chỉ là các quy định nhằm chống độc quyền, bảo vệ người tiêu dùng, duy trì trật tự công cộng mà còn nhằm thực thi các cam kết quốc tế, bảo vệ lợi ích kinh tế của một nhóm công dân hay một số địa phương nhất định. Quốc gia nào cũng có những vấn đề riêng về kinh tế có tính chất bảo đảm sự trật tự, ổn định chung của cộng đồng cần phải giải quyết, mặc dù có hạn chế quyền lợi tư. Các quan hệ này phản ánh vào trong hệ thống pháp luật tạo ra những đặc trưng riêng mà không dễ gì những ngành luật truyền thống bao quát được. Rõ ràng là khái niệm luật kinh tế không phải là sản phẩm riêng có của chủ nghĩa xã hội, nhưng ngành luật này tồn tại ở các nước XHCN cũ lại trở thành một đặc trưng riêng có của hệ thống pháp luật xã hội chủ nghĩa. Xuất phát từ một nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung cao độ, quan liêu bao cấp dựa trên chế độ sở hữu XHCN mà trong đó sở hữu toàn dân hay sở hữu nhà nước là bao trùm và thống soái, ngành luật kinh tế này điều chỉnh các quan hệ xã hội mang hai yếu tố là yếu tố tổ chức- kế hoạch và yếu tố tài sản với hai phương pháp điều chỉnh là phương pháp mệnh lệnh, phục tùng và phương pháp thoả thuận. Ở đây, cũng cần lưu ý rằng sự thoả thuận giữa các đơn vị kinh tế cơ sở của chủ nghĩa xã hội không còn mang đúng ý nghĩa của bản thân nó nữa vì thực chất nguyên tắc tự do khế ước đã bị thủ tiêu. Các đơn vị này xây dựng hợp đồng kinh tế trên cơ sở chỉ tiêu pháp lệnh được phân bổ từ một trung tâm kế hoạch hoá của quốc gia. Vì thế khi khảo sát luật kinh tế truyền thống người ta thường thấy có các chế định cơ bản như: 1) Xí nghiệp công nghiệp quốc doanh (bao gồm cả xí nghiệp liên hợp và liên hiệp các xí nghiệp) nơi thực hiện sản xuất trực tiếp ra hàng hoá và dịch vụ theo chỉ tiêu pháp lệnh. Việc tổ chức và chỉ đạo hoạt động của các xí nghiệp này bằng các mệnh lệnh hành chính; 2) Chế định kế hoạch hoá xác định vai trò quản lý kinh tế của nhà nước XHCN, các nguyên tắc và phương pháp tác động vào các quá trình kinh tế- xã hội theo kiểu XHCN; 3) Chế định hoạch toán kinh doanh XHCN xác định vai trò, vị trí và các nguyên tắc hoạch toán, có đề cập phần nào tới tính chủ động, sáng tạo không nguyên nghĩa của các đơn vị kinh tế cơ sở. Chế định này tồn tại là do thực tiễn khách quan của nền sản xuất mà buộc nhà nước XHCN phải chấp nhận, nhưng được bênh vực và giải thích bằng học th ...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
NHỮNG KHÁC BIỆT GIỮA LUẬT THƯƠNG MẠI VIỆT NAM VÀ CÁC CHẾ ĐỊNH PHÁP LUẬT THƯƠNG MẠI CÁC NƯỚC NHỮNG KHÁC BIỆT GIỮA LUẬT THƯƠNG MẠI VIỆT NAM VÀ CÁC CHẾ ĐỊNH PHÁP LUẬT THƯƠNG MẠI CÁC NƯỚC Người thực hiện : PGS.TS. Nguyễn Như Phát TS. Ngô Huy Cương PHẦN I SO SÁNH NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG CỦA LUẬT THƯƠNG MẠI 1.1.SỰ PHÂN BIỆT VÀ MỐI QUAN HỆ GIỮA LUẬT DÂN SỰ, LUẬT THƯƠNG MẠI, VÀ LUẬT KINH TẾ Sự xuất hiện của luật kinh tế với tính cách là một ngành luật độc lập, theo quan niệm của các luật gia ở Việt Nam, đã càng làm phức tạp thêm cho sự phân biệt và mối quan hệ giữa luật thương mại và luật dân sự mà các luật gia trên thế giới đã dày công nghiên cứu. Vấn đề phân chia các ngành luật được coi là một công việc rất cần thiết trong khoa học pháp lý không chỉ được đặt ra với các nước theo Civil Law, Sovietique Law mà còn được đặt ra một cách rất nghiêm túc với các nước theo Common Law và các hệ thống pháp luật khác. Tuy nhiên việc phân chia các ngành luật hay phân loại pháp luật là một vấn đề phức tạp, tế nhị và gây nhiều tranh luận. Ngay Nhật Bản- một nước phát triển đứng hàng thứ hai thế giới đã hết sức chú ý tới việc xây dựng một hệ thống pháp luật hiện đại, nhưng có thể nói cho tới nay 'chưa có quan điểm thống nhất về vấn đề phân loại các ngành luật' 1. 1. Nhằm mục đích của đề tài này, chúng tôi cố gắng tiếp cận vấn đề phân chia các ngành luật hay phân loại pháp luật một cách ngắn gọn nhất. Nhưng trước tiên nên bắt đầu từ một đặc thù của Việt Nam với ngành luật kinh tế. Theo giáo sư Tsuneo Inako, thuật ngữ luật kinh tế có lẽ xuất hiện và có chỗ đứng ở Nhật Bản dưới chủ nghĩa tư bản độc quyền, mặc dù còn có nhiều ý kiến khác nhau xung quanh việc vạch ra phạm vi của luật kinh tế 2. Tại đây ông nhấn mạnh tới tính chất ra đời muộn mằn của luật kinh tế so với luật thương mại- đặc trưng của kinh tế thị trường. Ở phía khác, chúng tôi đã khẳng định khái niệm luật kinh tế hay lĩnh vực luật kinh tế đã ra đời trước khi có sự hiện diện của chủ nghĩa xã hội hiện thực. Nhưng 'luật kinh tế khởi sinh trong khu vực luật công' và 'cho đến nay, các học giả tư sản vẫn chưa có quan niệm thống nhất về luật kinh tế khi đi tìm biên giới về đối tượng điều chỉnh của lĩnh vực pháp luật này'3. Luật thực định ở nhiều quốc gia có các quy định về kinh tế, chẳng hạn như ở Hoa kỳ trong các đạo luật về chuyên ngành thường có các quy định với tên gọi là 'Economic Regulations'. Lưu ý rằng các luật mà có các quy định như vậy thường là các luật phức hợp mà ở trong đó tồn tại cả các quy tắc của cả luật công và luật tư (như luật hàng không, luật hàng hải, luật bưu chính- viễn thông...). 1 . Tsuneo Inako- Tìm hiểu pháp luật Nhật Bản- NXB Khoa học xã hội- Hà nội 1993- tr.195-196. 2 . Tsuneo Inako- Tìm hiểu pháp luật Nhật Bản- NXB Khoa học xã hội- Hà nội-1993- Tr.196. 3 PGS. TS. Nguyễn Như Phát- Lý luận chung về luật kinh tế- Giáo trình luật kinh tế Việt nam- NXB Đại học Quốc gia Hà Nội-1997-tr5-6. 2 Các quy định về kinh tế này biểu hiện sự can thiệp trực tiếp của nhà nước vào quá trình kinh tế- xã hội làm thay đổi tình trạng pháp lý của chủ thể, hay nói cách khác, làm phát sinh hậu quả pháp lý trực tiếp mà chủ thể có thể được hưởng quyền lợi hay bị cắt giảm, triệt tiêu về mặt lợi ích do sự can thiệp này. Các quy định đó không chỉ là các quy định nhằm chống độc quyền, bảo vệ người tiêu dùng, duy trì trật tự công cộng mà còn nhằm thực thi các cam kết quốc tế, bảo vệ lợi ích kinh tế của một nhóm công dân hay một số địa phương nhất định. Quốc gia nào cũng có những vấn đề riêng về kinh tế có tính chất bảo đảm sự trật tự, ổn định chung của cộng đồng cần phải giải quyết, mặc dù có hạn chế quyền lợi tư. Các quan hệ này phản ánh vào trong hệ thống pháp luật tạo ra những đặc trưng riêng mà không dễ gì những ngành luật truyền thống bao quát được. Rõ ràng là khái niệm luật kinh tế không phải là sản phẩm riêng có của chủ nghĩa xã hội, nhưng ngành luật này tồn tại ở các nước XHCN cũ lại trở thành một đặc trưng riêng có của hệ thống pháp luật xã hội chủ nghĩa. Xuất phát từ một nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung cao độ, quan liêu bao cấp dựa trên chế độ sở hữu XHCN mà trong đó sở hữu toàn dân hay sở hữu nhà nước là bao trùm và thống soái, ngành luật kinh tế này điều chỉnh các quan hệ xã hội mang hai yếu tố là yếu tố tổ chức- kế hoạch và yếu tố tài sản với hai phương pháp điều chỉnh là phương pháp mệnh lệnh, phục tùng và phương pháp thoả thuận. Ở đây, cũng cần lưu ý rằng sự thoả thuận giữa các đơn vị kinh tế cơ sở của chủ nghĩa xã hội không còn mang đúng ý nghĩa của bản thân nó nữa vì thực chất nguyên tắc tự do khế ước đã bị thủ tiêu. Các đơn vị này xây dựng hợp đồng kinh tế trên cơ sở chỉ tiêu pháp lệnh được phân bổ từ một trung tâm kế hoạch hoá của quốc gia. Vì thế khi khảo sát luật kinh tế truyền thống người ta thường thấy có các chế định cơ bản như: 1) Xí nghiệp công nghiệp quốc doanh (bao gồm cả xí nghiệp liên hợp và liên hiệp các xí nghiệp) nơi thực hiện sản xuất trực tiếp ra hàng hoá và dịch vụ theo chỉ tiêu pháp lệnh. Việc tổ chức và chỉ đạo hoạt động của các xí nghiệp này bằng các mệnh lệnh hành chính; 2) Chế định kế hoạch hoá xác định vai trò quản lý kinh tế của nhà nước XHCN, các nguyên tắc và phương pháp tác động vào các quá trình kinh tế- xã hội theo kiểu XHCN; 3) Chế định hoạch toán kinh doanh XHCN xác định vai trò, vị trí và các nguyên tắc hoạch toán, có đề cập phần nào tới tính chủ động, sáng tạo không nguyên nghĩa của các đơn vị kinh tế cơ sở. Chế định này tồn tại là do thực tiễn khách quan của nền sản xuất mà buộc nhà nước XHCN phải chấp nhận, nhưng được bênh vực và giải thích bằng học th ...
Tìm kiếm theo từ khóa liên quan:
luật thương mại luật thương mại Việt Nam pháp luật đại cương luật kinh doanh luật Việt Nam luật dân sự luật kinh doanhGợi ý tài liệu liên quan:
-
Giáo trình Pháp luật đại cương: Phần 1 - ThS. Đỗ Văn Giai, ThS. Trần Lương Đức
103 trang 998 4 0 -
Bài giảng Pháp luật đại cương - Chương 4: Một số nội dung cơ bản của Luật hành chính
11 trang 280 0 0 -
Tổng hợp các vấn đề về Luật Dân sự
113 trang 280 0 0 -
Hợp đồng nhượng quyền thương mại: Phần 2
48 trang 271 0 0 -
Tìm hiểu Quyền và nghĩa vụ giữa các thành viên trong gia đình: Phần 2
93 trang 226 0 0 -
Giáo trình Pháp luật đại cương (Tái bản lần thứ 5) : Phần 2 - Nguyễn Hợp Toàn
214 trang 225 0 0 -
Tiểu luận: Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên
30 trang 217 0 0 -
Bài giảng Pháp luật đại cương - Chương 3: Một số nội dung cơ bản của Luật dân sự
24 trang 200 1 0 -
Bộ đề thi trắc nghiệm môn Pháp luật đại cương có đáp án
24 trang 194 2 0 -
5 trang 187 0 0