Những kinh nghiệm phẫu thuật sau 200 trường hợp ghép thận từ người cho sống tại Bệnh viện Chợ Rẫy
Số trang: 11
Loại file: pdf
Dung lượng: 468.23 KB
Lượt xem: 10
Lượt tải: 0
Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:
Thông tin tài liệu:
Bài viết đề cấp tới ghép thận tại Bệnh viện Chợ Rẫy thời gian qua chủ yếu từ người hiến thận sống và có quan hệ gia đình. Trong báo cáo này, muốn đánh giá kết quả phẫu thuật trên những trường hợp ghép tại bệnh viện trong thời gian qua.
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Những kinh nghiệm phẫu thuật sau 200 trường hợp ghép thận từ người cho sống tại Bệnh viện Chợ Rẫy Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 1 * 2012 Nghiên cứu Y học NHỮNG KINH NGHIỆM PHẪU THUẬT SAU 200 TRƯỜNG HỢP GHÉP THẬN TỪ NGƯỜI CHO SỐNG TẠI BỆNH VIỆN CHỢ RẪY Trần Ngọc Sinh**, Chu Văn Nhuận*, Dương Quang Vũ*, Thái Minh Sâm*, Châu Quý Thuận*, Dư Thị Ngọc Thu*, Hoàng Khắc Chuẩn*, Trần Trọng Trí*, Nguyễn Thị Thái Hà* TÓM TẮT: Mục tiêu: Ghép thận (KTx) tại Bệnh viện Chợ Rẫy (BVCR) thời gian qua chủ yếu từ người hiến thận sống và có quan hệ gia đình. Trong báo cáo này, chúng tôi muốn đánh giá kết quả phẫu thuật trên những trường hợp ghép tại bệnh viện trong thời gian qua. Đ ối tượng và phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu trường hợp lâm sàng, cắt ngang, theo dõi trong 3 tháng đầu sau mổ của những trường hợp (TH) ghép từ 1992 đến 2010. Bệnh nhân là các trường hợp được KTx tại bệnh viện Chợ Rẫy từ 1992 đến 2010. Chọn người hiến và nhận theo tiêu chuẩn quốc gia. Kỹ thuật mổ chủ yếu là ghép vào hốc chậu phải, trừ trường hợp hốc chậu phải có chống chỉ định (vết mổ cũ) và vài trường hợp của loạt đầu từ năm 1992 đến 1997. Thận ghép lấy từ mổ mở cắt thận (1992-2004) và cắt thận qua nội soi ổ bụng (2004-2005) hay nội soi sau phúc mạc (2005-2010). Ghép nối mạch máu (động mạch: nối tận-tận vào động mạch chậu trong, nếu có chống chỉ định sẽ nối tận-bên vào động mạch chậu ngoài, khi có viêm tắc động mạch; tĩnh mạch: nối tĩnh mạch tận-bên vào tĩnh mạch chậu ngoài). Từ năm 1998, sáng kiến phương pháp ghép chuyển vị tĩnh mạch thận ghép và tĩnh mạch chậu, trường hợp tĩnh mạch thận ghép lấy từ bên phải ngắn, cho phép chỉ ghép vào hốc chậu phải, trừ trường hợp có chống chỉ định đo vết mổ cũ bên phải. Theo dõi sau ghép trong điều kiện cách ly vô khuẩn (tuyệt đối trong 7 ngày đầu và tương đối trong 7 ngày kế tiếp), xuất viện 15 ngày sau mổ nếu diễn tiến tốt. Thuốc ức chế miễn dịch dẫn nhập là cyclosporine A tĩnh mạch và Methyl-Prednisolone (1992-2006) và Baxiliximab (Simulect®) hoặc Diziazumab (Simulect®) (giai đoạn 2006 trở đi). Thuốc ức chế miễn dịch dùng sau KTx theo công thức quy ước: Prednisone (Pred), Cyclosporine A (CyA), và Azathioprime (AZA) hoặc MMF. Kết quả phẫu thuật được đánh giá theo theo diễn tiến trong mổ và sau mổ trong 3 tháng. Kết quả: 202 lần ghép cho 201 trường hợp (TH) (có một người ghép 2 lần đều là người hiến thận trong gia đình). Giới tính gồm: 135/201 TH nam giới, (67,16%); 66/201 TH nữ giới, (32,84%). Tuổi trung bình: 33.98 ± 9,44, tuổi lớn nhất: 61, tuổi nhỏ nhất:15. Trừ 3/201 TH ghép từ người hiến thận không cùng huyết thống (1,49%). Thận ghép lấy từ bên phải: 52/202 thận (25,74%); thận ghép lấy từ bên trái: 150/202 thận (74,26%). Thận ghép từ mổ mở cắt thận là 88/202 (43,56%); từ phẫu thuật nội soi qua ổ bụng cắt thận 13/202 (6,44%); từ phẫu thuật nội soi sau phúc mạc cắt thận là 101/202 (50,00%). Kết quả chung sau 3 tháng: thành công 201/202 lần ghép (99,5%) cho 201 TH, một TH bị thải ghép tối cấp phải cắt bỏ thận sau theo dõi 1 tuần lễ. Biến chứng phẫu thuật đẫn tới tử vong: 0 TH, Biến chứng sau mổ: chảy máu sau mổ lại 2/201 (0,99%); hẹp động mạch hoặc tĩnh mạch thận ghép: 0 TH; là dò nước tiểu 4/201 (1,99%), phải mổ lại; chậm chức năng thận phải chạy thận nhân tạo: 2/201TH (0,99%). Biến chứng liên quan đến đáp ứng miễn dịch:1/201 thải ghép tối cấp (cắt bỏ thận ghép), 49/201 lần ghép bị thải ghép cấp (24,38%) đáp ứng tốt điều trị, không có trường hợp nào phải cắt thận. Kết luận: Trong thời gian đầu, về kỹ thuật mổ, theo chủ trương: thận phải được ghép vào hốc chậu trái, thận trái ghép vào hốc chậu phải, nhưng cũng chưa có TH nào ghép vào hốc chậu trái vì chưa lấy thận phải.Thời gian sau 1997-1998, do chỉ có 1 kíp mổ, do phát kiến kỹ thuật chuyển vị mạch máu, thận trái được ghép tự nhiên vào hố chậu phải; trường hợp thận phải, sẽ dùng kỹ thuật chuyển vị tĩnh mạch thận ghép và tĩnh mạch chậu để có thể ghép vào hốc chậu phải mà không cần phải dùng mảnh ghép tĩnh mạch hiễn trong. Các biến chứng sau mổ *Khoa Tiết niệu, bệnh viện Chợ Rẫy Tác giả liên lạc: PGS.TS Trần Ngọc Sinh. Chuyên Đề Ngoại Khoa Bộ môn Tiết Niệu Học, Khoa Y Đại học Y Dược ĐT: 0989047088. Email: tnsinh09@gmail.com ** 387 Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 1 * 2012 trong vòng 3 tháng đầu như nhiễm khuẩn, chảy máu sau mổ, hẹp động mạch thận... không đáng kể và không như lo ngại trước đây về ghép thận tại Việt Nam.Vấn đề ức chế miễn dịch không phải là trở ngại lớn trong loạt này với người cho sống và có quan hệ gia dình, thải ghép cấp dễ dàng khống chế với Methyl-Prednisolone liều cao. Từ khoá: Ghép thận đồng loại, Ghép thận từ người hiến thận sống, Phẫu thuật cắt thận nội soi để ghép ABSTRACT SURGICAL RESULTS OF LIVING DONOR TRANSPLANTATION (201 CASES) OF CHORAY HOSPITAL Tran Ngoc Sinh, Chu Van Nhuan, Duong Quang Vu, Thai Minh Sam, Chau Quy Thuan, Du Thi Ngoc Thu, Hoang Khac Chuan, Tran Trong Tri, Nguyen Thi Thai Ha * Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 16 - S ...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Những kinh nghiệm phẫu thuật sau 200 trường hợp ghép thận từ người cho sống tại Bệnh viện Chợ Rẫy Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 1 * 2012 Nghiên cứu Y học NHỮNG KINH NGHIỆM PHẪU THUẬT SAU 200 TRƯỜNG HỢP GHÉP THẬN TỪ NGƯỜI CHO SỐNG TẠI BỆNH VIỆN CHỢ RẪY Trần Ngọc Sinh**, Chu Văn Nhuận*, Dương Quang Vũ*, Thái Minh Sâm*, Châu Quý Thuận*, Dư Thị Ngọc Thu*, Hoàng Khắc Chuẩn*, Trần Trọng Trí*, Nguyễn Thị Thái Hà* TÓM TẮT: Mục tiêu: Ghép thận (KTx) tại Bệnh viện Chợ Rẫy (BVCR) thời gian qua chủ yếu từ người hiến thận sống và có quan hệ gia đình. Trong báo cáo này, chúng tôi muốn đánh giá kết quả phẫu thuật trên những trường hợp ghép tại bệnh viện trong thời gian qua. Đ ối tượng và phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu trường hợp lâm sàng, cắt ngang, theo dõi trong 3 tháng đầu sau mổ của những trường hợp (TH) ghép từ 1992 đến 2010. Bệnh nhân là các trường hợp được KTx tại bệnh viện Chợ Rẫy từ 1992 đến 2010. Chọn người hiến và nhận theo tiêu chuẩn quốc gia. Kỹ thuật mổ chủ yếu là ghép vào hốc chậu phải, trừ trường hợp hốc chậu phải có chống chỉ định (vết mổ cũ) và vài trường hợp của loạt đầu từ năm 1992 đến 1997. Thận ghép lấy từ mổ mở cắt thận (1992-2004) và cắt thận qua nội soi ổ bụng (2004-2005) hay nội soi sau phúc mạc (2005-2010). Ghép nối mạch máu (động mạch: nối tận-tận vào động mạch chậu trong, nếu có chống chỉ định sẽ nối tận-bên vào động mạch chậu ngoài, khi có viêm tắc động mạch; tĩnh mạch: nối tĩnh mạch tận-bên vào tĩnh mạch chậu ngoài). Từ năm 1998, sáng kiến phương pháp ghép chuyển vị tĩnh mạch thận ghép và tĩnh mạch chậu, trường hợp tĩnh mạch thận ghép lấy từ bên phải ngắn, cho phép chỉ ghép vào hốc chậu phải, trừ trường hợp có chống chỉ định đo vết mổ cũ bên phải. Theo dõi sau ghép trong điều kiện cách ly vô khuẩn (tuyệt đối trong 7 ngày đầu và tương đối trong 7 ngày kế tiếp), xuất viện 15 ngày sau mổ nếu diễn tiến tốt. Thuốc ức chế miễn dịch dẫn nhập là cyclosporine A tĩnh mạch và Methyl-Prednisolone (1992-2006) và Baxiliximab (Simulect®) hoặc Diziazumab (Simulect®) (giai đoạn 2006 trở đi). Thuốc ức chế miễn dịch dùng sau KTx theo công thức quy ước: Prednisone (Pred), Cyclosporine A (CyA), và Azathioprime (AZA) hoặc MMF. Kết quả phẫu thuật được đánh giá theo theo diễn tiến trong mổ và sau mổ trong 3 tháng. Kết quả: 202 lần ghép cho 201 trường hợp (TH) (có một người ghép 2 lần đều là người hiến thận trong gia đình). Giới tính gồm: 135/201 TH nam giới, (67,16%); 66/201 TH nữ giới, (32,84%). Tuổi trung bình: 33.98 ± 9,44, tuổi lớn nhất: 61, tuổi nhỏ nhất:15. Trừ 3/201 TH ghép từ người hiến thận không cùng huyết thống (1,49%). Thận ghép lấy từ bên phải: 52/202 thận (25,74%); thận ghép lấy từ bên trái: 150/202 thận (74,26%). Thận ghép từ mổ mở cắt thận là 88/202 (43,56%); từ phẫu thuật nội soi qua ổ bụng cắt thận 13/202 (6,44%); từ phẫu thuật nội soi sau phúc mạc cắt thận là 101/202 (50,00%). Kết quả chung sau 3 tháng: thành công 201/202 lần ghép (99,5%) cho 201 TH, một TH bị thải ghép tối cấp phải cắt bỏ thận sau theo dõi 1 tuần lễ. Biến chứng phẫu thuật đẫn tới tử vong: 0 TH, Biến chứng sau mổ: chảy máu sau mổ lại 2/201 (0,99%); hẹp động mạch hoặc tĩnh mạch thận ghép: 0 TH; là dò nước tiểu 4/201 (1,99%), phải mổ lại; chậm chức năng thận phải chạy thận nhân tạo: 2/201TH (0,99%). Biến chứng liên quan đến đáp ứng miễn dịch:1/201 thải ghép tối cấp (cắt bỏ thận ghép), 49/201 lần ghép bị thải ghép cấp (24,38%) đáp ứng tốt điều trị, không có trường hợp nào phải cắt thận. Kết luận: Trong thời gian đầu, về kỹ thuật mổ, theo chủ trương: thận phải được ghép vào hốc chậu trái, thận trái ghép vào hốc chậu phải, nhưng cũng chưa có TH nào ghép vào hốc chậu trái vì chưa lấy thận phải.Thời gian sau 1997-1998, do chỉ có 1 kíp mổ, do phát kiến kỹ thuật chuyển vị mạch máu, thận trái được ghép tự nhiên vào hố chậu phải; trường hợp thận phải, sẽ dùng kỹ thuật chuyển vị tĩnh mạch thận ghép và tĩnh mạch chậu để có thể ghép vào hốc chậu phải mà không cần phải dùng mảnh ghép tĩnh mạch hiễn trong. Các biến chứng sau mổ *Khoa Tiết niệu, bệnh viện Chợ Rẫy Tác giả liên lạc: PGS.TS Trần Ngọc Sinh. Chuyên Đề Ngoại Khoa Bộ môn Tiết Niệu Học, Khoa Y Đại học Y Dược ĐT: 0989047088. Email: tnsinh09@gmail.com ** 387 Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 1 * 2012 trong vòng 3 tháng đầu như nhiễm khuẩn, chảy máu sau mổ, hẹp động mạch thận... không đáng kể và không như lo ngại trước đây về ghép thận tại Việt Nam.Vấn đề ức chế miễn dịch không phải là trở ngại lớn trong loạt này với người cho sống và có quan hệ gia dình, thải ghép cấp dễ dàng khống chế với Methyl-Prednisolone liều cao. Từ khoá: Ghép thận đồng loại, Ghép thận từ người hiến thận sống, Phẫu thuật cắt thận nội soi để ghép ABSTRACT SURGICAL RESULTS OF LIVING DONOR TRANSPLANTATION (201 CASES) OF CHORAY HOSPITAL Tran Ngoc Sinh, Chu Van Nhuan, Duong Quang Vu, Thai Minh Sam, Chau Quy Thuan, Du Thi Ngoc Thu, Hoang Khac Chuan, Tran Trong Tri, Nguyen Thi Thai Ha * Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 16 - S ...
Tìm kiếm theo từ khóa liên quan:
Tạp chí y học Nghiên cứu y học Ghép thận đồng loại Ghép thận từ người hiến thận sống Phẫu thuật cắt thận nội soi để ghép thậnTài liệu liên quan:
-
Tổng quan hệ thống về lao thanh quản
6 trang 315 0 0 -
5 trang 308 0 0
-
8 trang 262 1 0
-
Tổng quan hệ thống hiệu quả kiểm soát sâu răng của Silver Diamine Fluoride
6 trang 253 0 0 -
Vai trò tiên lượng của C-reactive protein trong nhồi máu não
7 trang 238 0 0 -
Khảo sát hài lòng người bệnh nội trú tại Bệnh viện Nhi Đồng 1
9 trang 224 0 0 -
13 trang 204 0 0
-
8 trang 203 0 0
-
5 trang 202 0 0
-
9 trang 198 0 0