Dạo ấy, phong trào Ái hữu đương bồng bột và tôi đã tham gia phong trào ở làng tôi. Nhưng cuộc vận động Ái hữu thợ dệt ở Vạn Phúc nổi nhất trong tỉnh Hà Đông. Làng Vạn Phúc có cả chủ và thợ vào hội Ái hữu. Chủ và thợ các xóm La, xóm Mỗ đều bảo nhau đóng tiền, đến trụ sở đọc sách báo Mặt trận Dân chủ.
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Những Người Thợ CửiNhững Người Thợ CửiDạo ấy, phong trào Ái hữu đương bồng bột và tôi đã tham gia phong trào ở làngtôi. Nhưng cuộc vận động Ái hữu thợ dệt ở Vạn Phúc nổi nhất trong tỉnh Hà Đông.Làng Vạn Phúc có cả chủ và thợ vào hội Ái hữu. Chủ và thợ các xóm La, xóm Mỗđều bảo nhau đóng tiền, đến trụ sở đọc sách báo Mặt trận Dân chủ. Có những ngàychợ Đơ người các nơi về, tận Bùng và Trinh Tiết gần chùa Hương cũng ra. Ngườita hỏi về thể lệ lập Ái hữu trong các làng tơ cửi. Điều này chúng tôi đã không làmnổi khi trụ sở Ái hữu thợ dệt Hà Đông còn đặt ở đầu chợ Bưởi ngoài vùng tôi. Đất Vạn Phúc đã từng sôi sục phong trào đưa yêu sách của chủ và thợ nghề tơlụa tỉnh Hà Đông cho thanh tra lao động Gô-đa, ở bên Pháp sang. Rầm rộ nhất làcuộc đi đón Ônen, đại biểu Đảng Cộng sản Pháp. Hầu như cả làng kéo đi. Rồi mấy trăm thanh niên Vạn Phúc trói tay mình ra thị xã chống thuế, đứngtrước cửa toà sứ... Tiếng đồn những chuyện như thế ở Vạn Phúc, chúng tôi cứ kểtruyền đi. Thế mà làng Tây Mỗ còn rầm rầm phong trào hơn nữa.. Người giỏi như anh Khánh, anh Hiền - anh Hiền mà nói về chủ nghĩa cộng sảnvà Liên bang Xô-viết thì đêm này qua đêm khác ai cũng còn muốn nghe. Các làng La, làng Mỗ và Vạn Phúc đã đứng lên chống thuế. Ở ngoài Bưởi, chúng tôi cũng chống thuế, chống phù thu lạm bổ bắt chước VạnPhúc. Nhưng không sôi nổi hút vào như vùng trong. Cái trụ sở lâm thời của hội Ái hữu thợ dệt Hà Đông đã chuyển từ dốc chợ Bưởivào chợ Mỗ. Tôi và Điều cũng theo vào Cái xe tay bánh sắt lộc cộc chở chiếc bảnggỗ kẻ biển, tôi ngồi ôm cái thành nó. Nghề cửi dệt thoi tay hồi ấy đã đổi sang dệt máy “dắc-ca”, đương sầm uất. Làngnào cũng đông vui thợ thuyền. Nhưng ở đâu cũng thế, người thợ dệt vẫn chỉ cái quần mài mòn đít trên đònngồi. Phong trào Ái hữu lên, chúng tôi hô hào học chữ, có học chữ mới tiến tớiđược nghiệp đoàn, mới đấu tranh lên thế giới đại đồng” được. Anh nào cũng hamhọc chữ. Tôi được thêm chân dạy học. Như ông đồ ngồi bảo trẻ con trong xóm.Nhờ vào tiền đóng học, tôi có lương ăn. Tôi đã đi và ở vài nơi khác, nhưng đi đâurồi cũng lại quay về ở Vạn Phúc. Vạn Phúc lúc nào cũng sôi nổi, cho mình thấyhăng hái. Năm đó, tôi mười bảy tuổi. Từ khi đến Vạn Phúc cũng là thực sự những ngàylang bạt và cảm thấy xa xa cái gia đình u ám của tôi. Tôi trọ một nhà đầu cầu Am. Nhưng không thật còn nhớ quang cảnh chỗ cầuAm rẽ xuống làng Vạn Phúc ngày ấy như thế nào. Trong tưởng tượng, mờ mờ có một cây đa sần sùi. Những lết trâu cọ mình làmcho gốc cây mòn vẹt như bị ai buộc cho thót lưng lại. Rồi tiếng những bụi tre phờphạc nghiến ken két dai dẳng suốt mùa đông, làm cho buổi chiều, xám ngắt trôngra các cánh đồng làng La, làng Mỗ càng buồn bã hơn. Một câu hát ru con trong vách nhà ai vừa cất lên, như lời đồng dao, cứ ngẩn ngơvà mênh mang ý nghĩa gì không biết. Con cò mày đậu cành tre Thằng tây bắn súng cò què một chân... Những đêm đi vận động lập Ái hữu, từ vùng Vân Đình trong Bùng ra cầu Am,trời rét buốt đến nỗi những mảnh sao sáng trên trời cũng long lanh nhọn hoắt, nhưcứng hẳn lại. Để tránh giá và cho người ấm lên đỡ rét, chúng tôi hò nhau đẩy hộ những cái xebò ngất ngưởng chở nón Chuông, chở nồi niêu Canh Hoạch, như cả cái nhà đinghênh ngang giữa đường. Ra tới cầu Am vừa nghe gà gáy. Tiếng gà gáy bạt đi giữa tiếng gió hú, nhưnhững chấm đèn đóm vừa nhấp nháy lên. Hàng tráng bánh cuốn le lói lửa bếp trong vách. Lão hàng bánh này dậy sớmnhất các nhà. Lão thật khác thường. Lão mặc yếm, búi tóc, chít khăn vuông. Ngườita gọi lão là cô. Những người đàn ông mình cao số nặng này không lấy vợ đi hầu cửa đền cửaphủ, làm đồng cô, thường như thế. Việc đồng bóng là việc của lão, chúng tôi không để ý. Chúng tôi chui vào vách ngồi sưởi đợi bánh và trêu lão, đánh cuộc xem lão làđàn ông hay đàn bà, đòi lão cho bóp xem có phải là cô thật không. Lão ta làmđiệu ngoảy đi, rồi vừa múc bột lên cái vải lọc đặt trên miệng chậu, vừa giả bộ dửngdưng và ư ử đọc những câu không đầu không đuôi, như cách nói thơ tiên(1) củanhững người đồng cô bóng cậu. Tôi cũng còn nhớ trên cầu Am có mấy ngôi hàng nước một lò may, hàng cắt tócvà những túp lều nối vách đứng dựa vào nhau của những người đi làm thuê ngoàithị xã Hà Đông suốt ngày cài cửa im ỉm, cứ xẩm tối mới thấy dò về lập loè đèn lửa. Bác chủ nhà tôi trọ làm cu-ly san(2) nhà thương tỉnh. Bác gái ở nhà thổi cơm và có khi có người gọi đi làm mướn những việc tạptrong làng. Những tối phiên chợ lụa thường đông thợ cửi trong làng ra cho tôi bảo học. Họdệt cửi băm bổ cả ngày, tối nào cũng lên đèn đầu hôm đến khuya gà gáy sang canhđã lại dậy lao vào khung. Năm hôm quần quật cả đầu hôm gà gáy, chỉ nghỉ mỗi tốingày phiên. Thế mà tối ngày phiên lại chịu khó ngồi chúi mũi quanh ngọn đèn tùmù học chữ, đọc sách báo. Chúng tôi lúc ấy thích hiểu biết, ham chơi, thật hăng và táo tợn. Những cuộc bàncãi và đọc sách báo ồn ào suốt đêm những cuộ ...