Danh mục

Những nguy hiểm từ một số thuốc chống loạn nhịp

Số trang: 5      Loại file: pdf      Dung lượng: 185.15 KB      Lượt xem: 6      Lượt tải: 0    
Jamona

Phí tải xuống: miễn phí Tải xuống file đầy đủ (5 trang) 0
Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:

Thông tin tài liệu:

Kiểm tra huyết áp để ngừa hạ huyết áp tư thế do tác dụng phụ của thuốc.Kết quả của thử nghiệm chống loạn nhịp tim và các nghiên cứu khác được công bố từ năm 1989 - 1992 cho thấy, tỷ lệ tử vong tăng liên quan đến việc dùng thuốc chống loạn nhịp khiến giới y học phải đánh giá lại sự lựa chọn và sử dụng thuốc trong xử trí nhiều trường hợp loạn nhịp nặng.
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Những nguy hiểm từ một số thuốc chống loạn nhịp Những nguy hiểm từ một số thuốc chống loạn nhịp Kiểm tra huyết áp để ngừa hạ huyết áp tư thế do tác dụng phụ của thuốc. Kết quả của thử nghiệm chống loạn nhịp tim và các nghiên cứu khácđược công bố từ năm 1989 - 1992 cho thấy, tỷ lệ tử vong tăng liên quan đếnviệc dùng thuốc chống loạn nhịp khiến giới y học phải đánh giá lại sự lựachọn và sử dụng thuốc trong xử trí nhiều trường hợp loạn nhịp nặng. Hệ thống phân loại Vaughan- Williams (V-W) được sử dụng từ lâu để phânloại thuốc chống loạn nhịp. Hệ thống này xếp những thuốc hiện có vào 1 trong 4nhóm I, II, III, IV. Trong nhóm thuốc chống loạn nhịp, cơ chế tác dụng của nhóm III đượchiểu ít nhất, trong khi đó nhiều thuốc trong nhóm này có tác dụng đa dạng và khácnhau. Một số nhà nghiên cứu cho rằng, tác dụng điện sinh lý của nhóm III đạtđược chủ yếu là do chẹn kênh kali. Tuy nhiên, vẫn còn nhiều vấn đề cần đượcnghiên cứu về cơ chế tác dụng của nhóm thuốc này. Nhiều thuốc nhóm III có tácdụng điện sinh lý đa dạng. Ví dụ, amiodaron, bretylium và sotalol là 3 thuốc chủyếu được xếp vào nhóm thuốc chống loạn nhịp nhóm III nhưng amiodaron lại cócác đặc điểm điện sinh lý điển hình cho tất cả các nhóm của hệ thống phân loại V-W, mặc dù, do ban đầu amiodaron được bào chế và dùng làm thuốc chống đau thắtngực, nó có cả tác dụng vận mạch ngoại vi và mạch vành. Sotalol có đặc tính điệnsinh lý, dược động học, dược lý học của cả hai nhóm II và III. Disopyramid, trongkhi được xếp vào nhóm I thì lại có hoạt tính của nhóm III. Giống như tất cả các thuốc chống loạn nhịp, nhóm III có thể gây loạn nhịptim, bao gồm các loạn nhịp thất nguy hiểm đến tính mạng và có thể làm trầm trọngthêm các loạn nhịp thất trước đó, dẫn đến rung thất dai dẳng, nhịp nhanh thất daidẳng và/hoặc xoắn đỉnh. Thường khó phân biệt giữa loạn nhịp ác tính có từ trướcvới loạn nhịp do thuốc, trừ khi có hiện tượng rõ rệt thúc đẩy như mất cân bằngđiện giải hoặc nhồi máu cơ tim cấp (AMI). Sử dụng các thuốc chống loạn nhịp cóthể gây chết đột ngột, và bệnh nhân tiếp tục có nguy cơ không chỉ khi bắt đầu điềutrị như quan niệm trước đây. Cần theo dõi chặt chẽ khoảng QT và cân bằng điệngiải khi dùng liệu pháp chống loạn nhịp để giảm thiểu các tai biến nguy hiểm chếtngười. Mặc dù là loại thuốc chống loạn nhịp có hiệu quả tốt, song việc sử dụngamiodaron bị hạn chế do có nhiều tác dụng phụ. Amiodaron độc hơn các thuốcnhóm III khác và các thuốc khác nói chung. Nhìn chung, có khoảng 70% bệnhnhân dùng amiodaron bị phản ứng phụ, với 5-20% tai biến nghiêm trọng đến mứcphải dừng thuốc. Nói chung, các tác dụng phụ chủ yếu của amiodaron thường tíchlũy và có liên quan đến liều, do đó nó dễ xảy ra sau khi điều trị kéo dài và/hoặcliều cao. Tác dụng phụ nghiêm trọng nhất của liệu pháp amiodaron là phản ứng phổi.Phản ứng này có thể gây chết người (10% số trường hợp) và có lẽ là hậu quả củaviêm phổi kẽ, viêm phổi quá mẫn, xơ phổi hoặc ARDS do amiodaron gây ra. Mặc dù tương đối hiếm gặp, nhiễm độc gan có thể gây tử vong (xơ gan,viêm gan) thứ phát sau khi dùng liệu pháp amiodaron và cùng với nó là sự tăngmạnh các men gan. Tác dụng tim mạch của amiodaron rất khó phân biệt với phạm vi hoạt tínhdược học bình thường của thuốc. Amiodaron có thể gây blốc nhĩ thất, blốc xoangnhĩ và/hoặc blốc trong thất, gây ra các loạn nhịp tim mới nặng. Thuốc cũng có thểlàm trầm trọng thêm các loạn nhịp vốn có. Bệnh nhân dùng amiodaron có thể bịbệnh thần kinh ngoại vi. Nhược giáp do amiodaron hay gặp hơn so với cường giáp. Trong một sốnhưng không phải là tất cả các trường hợp bị bệnh tuyến giáp, việc ngừng điều trịbằng amiodaron là cần thiết. Quá mẫn với ánh sáng, một tác dụng phụ trên da hay gặp nhất có thể xảy raở 10% số bệnh nhân. Dùng amiodaron lâu ngày ít khi làm da đổi thành màu xanhxám, tình trạng này hay gặp hơn ở người có nước da trắng hoặc những ngườithường xuyên tiếp xúc với ánh nắng mà không có biện pháp bảo vệ. Rối loạn dạ dày ruột tương đối hay gặp khi dùng amiodaron, đặc biệt ở giaiđoạn điều trị tấn công, nhưng thường không phải dừng thuốc. Triệu chứng tiêu hóaxảy ra ở khoảng 25% số bệnh nhân bao gồm nôn, buồn nôn, chán ăn, táo bón, đaubụng. Rối loạn thị giác, gồm nhìn quầng, nhìn lóa, sợ ánh sáng và khô mắt xảy raở khoảng 10% số bệnh nhân. Lắng đọng giác mạc không triệu chứng (lắng đọng vithể) xảy ra ở gần như tất cả các bệnh nhân dùng amiodaron trong ít nhất 6 thángmắc, dù tình trạng này có thể xảy ra sớm hơn và thường không liên quan với rốiloạn về mắt. Các tác dụng phụ hay gặp nhất có thể dẫn đến phải ngừng sotalol gồm: mệtmỏi, nhịp tim chậm, suy nhược, tiêu chảy, chóng mặt. Những bệnh nhân bị bệnhphế quản co thắt từ trước có nguy cơ cao bị hen, rối loạn nhịp thở hoặc co thắt phếquản ...

Tài liệu được xem nhiều: