Danh mục

Những tri thức cần thiết cho giáo viên toán để dạy học nội dung vectơ ở bậc trung học phổ thông

Số trang: 10      Loại file: pdf      Dung lượng: 554.93 KB      Lượt xem: 8      Lượt tải: 0    
Hoai.2512

Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:

Thông tin tài liệu:

Trong bài viết này, tác giả vận dụng khái niệm chuyển hóa sư phạm của lí thuyết tình huống và một số kết quả nghiên cứu gần đây về mô hình tri thức của người giáo viên Toán vào nội dung Vectơ ở trường Trung học phổ thông.
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Những tri thức cần thiết cho giáo viên toán để dạy học nội dung vectơ ở bậc trung học phổ thôngHNUE JOURNAL OF SCIENCE DOI: 10.18173/2354-1075.2020-0067Educational Sciences, 2020, Volume 65, Issue 4, pp. 167-176This paper is available online at http://stdb.hnue.edu.vn NHỮNG TRI THỨC CẦN THIẾT CHO GIÁO VIÊN TOÁN ĐỂ DẠY HỌC NỘI DUNG VECTƠ Ở BẬC TRUNG HỌC PHỔ THÔNG Trần Cường Khoa Toán - Tin, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội Tóm tắt. Trong bài báo này, tác giả vận dụng khái niệm chuyển hóa sư phạm của lì thuyết tính huống và một số kết quả nghiên cứu gần đây về mô hính tri thức của người giáo viên Toán vào nội dung Vectơ ở trường Trung học phổ thông. Lược sử hính thành, nguồn gốc, ý nghĩa và vị trì của tri thức được trính bày một cách có hệ thống nhằm giúp người giáo viên toán vươn tới tầm tri thức “biết rộng, hiểu sâu, có tầm nhín cao” khi dạy nội dung Vectơ. Đây là tiền đề cần thiết để có những bài dạy hiệu quả. Từ khoá: chuyển hóa sư phạm, tri thức nội dung, tri thức nội dung dạy học, dạy học vectơ.1. Mở đầu Trong chương trính đào tạo giáo viên Toán tại Trường Đại học Sư phạm Hà Nội hiện nay,lượng kiến thức chuyên ngành về Toán trang bị cho sinh viên là rất lớn: khoảng 30 học phầntoán cơ bản với gần 70 tìn chỉ (nghĩa là xấp xỉ 1000 tiết học). Trong rất nhiều kiến thức toán họcđó, phần nào thiết thực cho người giáo viên khi dạy học ở các bậc phổ thông? Câu trả lời thựcsự triệt để và thuyết phục không hề dễ dàng. Cách tiếp cận tới tri thức từ hai góc độ: nội dungtrong quá trính dạy học môn Toán và yếu tố quan trọng cấu thành năng lực sư phạm của ngườigiáo viên Toán là một cách làm phù hợp, khả thi. Trong hệ thống dạy học tối thiểu, theo lì thuyết tính huống, tri thức cùng với học sinh, giáoviên và môi trường là những thành phần cấu thành [1, tr. 152]. Tri thức dạy học sẽ được chuyểnhóa thành kiến thức của học sinh thông qua tổ chức dạy học của giáo viên. Tiền thân của tri thứcdạy học là tri thức chương trính: từ tri thức được quy định trong chương trính, sách giáo khoa,người giáo viên tiến hành hoàn cảnh hóa lại, thời gian hóa lại, cá nhân hóa lại để đặt học sinhvào một tính huống có dụng ý sư phạm. Muốn có tri thức chương trính, người ta xuất phát từ trithức khoa học, sàng lọc - định mức độ yêu cầu - định cách thức diễn đạt phù hợp để đảm bảo sựtương hợp của hệ thống dạy học với môi trường của nó. Tri thức khoa học, trong trường hợp này là tri thức toán học - đối tượng của nhận thức.Đặc biệt là trong khoa học toán học, để thông báo một tri thức, nhà nghiên cứu thường xóa bỏlịch sử, không nêu lại tính huống cụ thể, bỏ qua những tím tòi, dự đoán, sai lầm hay các mốcthời gian - tức là họ thường phi hoàn cảnh hóa, phi cá nhân hóa, phi thời gian hóa. Hai khâusau của quá trính nói trên được gọi là chuyển hóa sư phạm [1, tr. 153]. Trong mô hình năng lực của người giáo viên Toán đề xuất bởi dự án COACTIV (tênđầy đủ là Professional Competence of Teachers, Cognitively Activating Instruction, and theMathematical Literacy, triển khai ở CHLB Đức giai đoạn 2002 - 2009), tri thức nghề là mộtNgày nhận bài: 9/2/2020. Ngày sửa bài: 15/4/2020. Ngày nhận đăng: 23/4/2020.Tác giả liên hệ: Trần Cường. Địa chỉ e-mail: trancuong@hnue.edu.vn 167 Trần Cườngthành tố cấu thành cùng với động lực, sự tự chủ, niềm tin - giá trị - lì tưởng. Dự án này do Việnnghiên cứu về nguồn nhân lực, Berlin kết hợp với viện đại học Goethe, Frankfurt cùng một sốtrường đại học khác tại Đức tiến hành, đã công bố chuyên khảo [2] (2013) được trìch dẫn 201 lầntrên chuyên trang học thuật Google Scholar (trong đó có những công trính “siêu ảnh hưởng”như sách [Stronge J.H, 2018, Qualities of Effective Teachers, ASCD Publishing] sở hữu 2191trìch dẫn trên cùng hệ thống). Có tới 5 nhóm tri thức cần thiết là tri thức nội dung (CK: Content Knowledge), tri thức sưphạm về nội dung (PCK: Pedagogical Content Knowledge), tri thức tâm lí - sư phạm về nộidung (PPK: Pedagogical/Psychological Knowledge), tri thức tổ chức (OK: OrganizationalKnowledge) và tri thức tư vấn (CoK: Counseling Knowledge). Nói riêng, CK được mô tả là sự hiểu biết sâu sắc về toán phổ thông; PCK có 3 phần chìnhyếu: cách giải thìch, diễn đạt tri thức toán, hiểu biết về sự học tập của học sinh và hiểu biết vềcác nhiệm vụ học toán. Ba nhóm PPK, OK, CoK đòi hỏi mở rộng nghiên cứu tới một số lĩnh vực khác như tâm lìhọc, quản lì giáo dục, đánh giá trong giáo dục,... ìt liên quan tới chương trính đào tạo chuyênngành Sư phạm Toán, lại khó gắn kết với nội dung dạy học vectơ ở phổ thông. Để chuẩn bị CK- PCK cho người giáo viên là một vấn đề quá rộng lớn nên tác giả chủ động giới hạn ...

Tài liệu được xem nhiều:

Gợi ý tài liệu liên quan: