Những triệu chứng lâm sàng khi mắc bệnh giun, sán, amibe, Trùng roi Giardia
Số trang: 7
Loại file: pdf
Dung lượng: 108.45 KB
Lượt xem: 14
Lượt tải: 0
Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:
Thông tin tài liệu:
Biểu hiện rõ rệt nhất là ngứa hậu môn. Sự ngúa ngáy nầy thường xảy ra ban đêm, khi nằm ngủ đã ấm chỗ và sự ấm nầy khiến con cái ra ở rìa hậu môn để đẻ. Vùng nầy bị viêm, có những chấm đỏ li ti là dấu cắn do giun kim để lại. Hiện tượng ngứa nầy nếu xảy ra thường xuyên sẽ ảnh hưởng đến tính tình của đứa bé: nó hay quạu quọ, dễ mất ngủ, dễ khóc ban đêm, dễ daais dầm, có khi làm kinh. Ngoài ra, có những rối loạn tiêu...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Những triệu chứng lâm sàng khi mắc bệnh giun, sán, amibe, Trùng roi Giardia Những triệu chứng lâm sàng khi mắc bệnh giun, sán, amibe, Trùng roi Giardia 1. Giun kim: Biểu hiện rõ rệt nhất là ngứa hậu môn. Sự ngúa ngáy nầy th ường xảy ra ban đêm, khi nằm ngủ đã ấm chỗ và sự ấm nầy khiến con cái ra ở rìa hậu môn để đẻ. Vùng nầy bị viêm, có những chấm đỏ li ti là dấu cắn do giun kim để lại. Hiện tượng ngứa nầy nếu xảy ra thường xuyên sẽ ảnh hưởng đến tính tình của đứa bé: nó hay quạu quọ, dễ mất ngủ, dễ khóc ban đêm, dễ daais dầm, có khi làm kinh. Ngoài ra, có những rối loạn tiêu hoá: đau bụng, tiêu chảy, biếng ăn. 2. Giun đũa: Trong thời kỳ chu kỳ, khi ấu trùng đến phổi nó có thể gây hội chứng Loeffler: có những cơn ho khan có khi kèm theo khó thở, chiếu X quang thấy hình ảnh thâm nhiễm phổi nhưng không bền, bạch cầu toan tính trong máu tăng cao (20-40%) Lúc giun đũa đã trưởng thành và định vị ở ruột non, nếu ít th ì triệu chứng không rõ rệt, bệnh nhân chỉ thấy rối loạn tiêu hoá: đau bụng vặt, mơ hồ, bón hay tiêu chảy, ăn khong tiêu, buồn nôn, nhức đầu, có khi kèm theo nổi mẩn, phù. Một đôi khi bệnh chỉ được phát hiện khi được sự ói ra giun hay khi tình cờ xét nghiệm thấy có trứng trong phân. Trường hợp nhiều giun, có thể đau bụng nhiều, tắc ruột, lủng ruột, viêm ruột thừa, viêm màng bụng, viêm ống mật, ống tuỵ. Ở trẻ em, có thể gây chứng co quắp, kinh phong, trướng bụng. 3. Giun móc: Bệnh giun móc chia ra làm ba thời kỳ: - Thời kỳ xâm nhập: Nơi ấu trùng đi ngang qua da, thường chỉ có những nốt sần đỏ da, to bằng đầu kim gút, ngứa ngáy, tự biến mất sau 3 - 4 ngày. - Thời kỳ chu du: Lúc đầu ấu trùng đến phổi, triệu chứng thường kín đáo, không nhận ra. Đương sự ho khan, có cơn, không đờm, khan tiếng, khó phát âm. Chụp X quang không thấy những hình thâm nhiễm vì không có hội chứng Loeffler như trường hợp giun đũa, trừ phi bị nhiễm nặng. - Thời kỳ toàn phát: Đó là lúc giun móc đ ã trưởng thành và đã định vị ở tá tràng. Biểu hiện bằng những rối loạn tiêu hoá và chứng thiếu máu. - Viêm tá tràng: Với những cơn đau vùng thượng vị làm cho lầm tưởng bị loét dạ dày hay tá tràng nhưng xảy ra bất thường, không tu ỳ thuộc giờ ăn, kèm theo cảm giác đói cồn cào, chán ăn, buồn nôn. Hiện tượng viêm nầy không xảy ra ở những lần tái sinh. - Tiêu chảy xen kẽ với tái bón - Thiếu máu: ì giun móc ngoạm niêm mạc ruột để hút máu, nhưng trong lúc hút máu ở miệng thì lại thải ra ở hậu môn và lại tiết ra một chất chống lại sự đông máu thành thử máu cứ rỉ hoài. Chứng thiếu máu này có khi rất trầm trọng: hồng cầu tụt xuống còn 1 triệu tới 2 triệu/mm3 máu (bình thường 4.5- 5.9 triệu/mm3), thể tích huyết cầu còn 20% (bình thường 43%, ở người đàn ông, 39% ở người đàn bà). 4.Giun tóc Trường hợp nhiễm nhẹ thì không có triệu chứng gì cả. Nếu bị nhiễm nặng, th ì có những biểu hiện lâm sàng sau dây: - Đau bụng kèm theo tiêu chảy. - Sa trực tràng (trực tràng lòi ra khỏi hậu môn). - Thiếu máu nhưng chứng nầy là do độc tố của giun tóc tiết ra, h ơn là vì nó hút máu của vật chủ. 5. Giun lươn: Có ba nhóm dấu hiệu lâm sàng chính: a. Dấu hiệu da (gặp trong 10% trường hợp) Ở chỗ ấu trùng đi ngang qua da, da sần đỏ, ngứa nhưng thường bệnh nhân không để ý nếu bị nhiễm nhẹ, có khi ấu trùng di chuyển dưới da ở vùng bụng, mông, hàng, đùi biểu lộ bằng một đường cong, khucs khu ỷu, di động, xuất phát từ hậu môn và tự nhiên biến mất. b. Dấu hiệu phổi: (ít gặp: 3% trường hợp tương ứng, với giao đoạn ấu trùng chu du khi tương đương sự bị nhiễm lần đầu hay bị tái nhiễm: - Ho khan, dằng dai. - Có những cơn suyễn, kiểu dị ứng, tái phát nhiều lần trong ngày, có thể đưa đến chẩn đoán sai lầm. - Chụp X quang thấy những hình ảnh thâm nhiễm không bền. c. Dấu hiệu ruột (thường gặp nhất): - Viêm tá tràng với những cơn đau vùng thượng vị hay hạ sườn phải làm cho có thể lầm tưởng bị loét dạ dàyhay tá tràng nhưng không tu ỳ thuộc vào giờ ăn. - Tiêu chảy xảy ra từng đợt lâu 2-3 tuần rồi tự nhiên ngưng, mỗi ngày đi tiêu 15- 20 lần, phân lỏng như nước. Có khi táo bón, buồn nôn. 6. Sán dải heo và sán dải bò: Trong đa số trường hợp, thường chỉ có 1 con sán dải heo hay b ò trong ruột người cho nên những sán này cũng có khi được gọi là sán cô độc. Nó không gây triệu chứng rõ rệt, nếu có cũng chỉ là triệu chứng khó chịu trong bụng, ăn không ngon, có khi sụt cân, nhức đầu, buồn nôn. Bệnh nhân chỉ phát hiện khi tìm thấy đốt trong phân hay đốt sán tự động ra ngoài. Ngoài ra, người có thể tình cờ bị ấu trùng của sán dải heo nhiễm (ấu trùng sán dải bò rất ít gặp ở người) Có thể nhiễm theo 2 cách: a. Nuốt trứng có phôi vì ăn nhằm đồ ăn hay tay dơ bị vấy phân. Đó là cách nhiễm thông thường nhất, nhưng số lượng trứng nuốt vào thường không nhiều lắm. b. Tự nhiễm: Bình thường những đốt già chứa đựng trứng theo phân ra ngoài. Nhưng một vài đốt già có thể sau khi tách khỏi sán, được đưa lên dạ dày bởi những phân nhu động của ruột. Dịch vị sẽ làm tan, rã đốt và phóng t ...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Những triệu chứng lâm sàng khi mắc bệnh giun, sán, amibe, Trùng roi Giardia Những triệu chứng lâm sàng khi mắc bệnh giun, sán, amibe, Trùng roi Giardia 1. Giun kim: Biểu hiện rõ rệt nhất là ngứa hậu môn. Sự ngúa ngáy nầy th ường xảy ra ban đêm, khi nằm ngủ đã ấm chỗ và sự ấm nầy khiến con cái ra ở rìa hậu môn để đẻ. Vùng nầy bị viêm, có những chấm đỏ li ti là dấu cắn do giun kim để lại. Hiện tượng ngứa nầy nếu xảy ra thường xuyên sẽ ảnh hưởng đến tính tình của đứa bé: nó hay quạu quọ, dễ mất ngủ, dễ khóc ban đêm, dễ daais dầm, có khi làm kinh. Ngoài ra, có những rối loạn tiêu hoá: đau bụng, tiêu chảy, biếng ăn. 2. Giun đũa: Trong thời kỳ chu kỳ, khi ấu trùng đến phổi nó có thể gây hội chứng Loeffler: có những cơn ho khan có khi kèm theo khó thở, chiếu X quang thấy hình ảnh thâm nhiễm phổi nhưng không bền, bạch cầu toan tính trong máu tăng cao (20-40%) Lúc giun đũa đã trưởng thành và định vị ở ruột non, nếu ít th ì triệu chứng không rõ rệt, bệnh nhân chỉ thấy rối loạn tiêu hoá: đau bụng vặt, mơ hồ, bón hay tiêu chảy, ăn khong tiêu, buồn nôn, nhức đầu, có khi kèm theo nổi mẩn, phù. Một đôi khi bệnh chỉ được phát hiện khi được sự ói ra giun hay khi tình cờ xét nghiệm thấy có trứng trong phân. Trường hợp nhiều giun, có thể đau bụng nhiều, tắc ruột, lủng ruột, viêm ruột thừa, viêm màng bụng, viêm ống mật, ống tuỵ. Ở trẻ em, có thể gây chứng co quắp, kinh phong, trướng bụng. 3. Giun móc: Bệnh giun móc chia ra làm ba thời kỳ: - Thời kỳ xâm nhập: Nơi ấu trùng đi ngang qua da, thường chỉ có những nốt sần đỏ da, to bằng đầu kim gút, ngứa ngáy, tự biến mất sau 3 - 4 ngày. - Thời kỳ chu du: Lúc đầu ấu trùng đến phổi, triệu chứng thường kín đáo, không nhận ra. Đương sự ho khan, có cơn, không đờm, khan tiếng, khó phát âm. Chụp X quang không thấy những hình thâm nhiễm vì không có hội chứng Loeffler như trường hợp giun đũa, trừ phi bị nhiễm nặng. - Thời kỳ toàn phát: Đó là lúc giun móc đ ã trưởng thành và đã định vị ở tá tràng. Biểu hiện bằng những rối loạn tiêu hoá và chứng thiếu máu. - Viêm tá tràng: Với những cơn đau vùng thượng vị làm cho lầm tưởng bị loét dạ dày hay tá tràng nhưng xảy ra bất thường, không tu ỳ thuộc giờ ăn, kèm theo cảm giác đói cồn cào, chán ăn, buồn nôn. Hiện tượng viêm nầy không xảy ra ở những lần tái sinh. - Tiêu chảy xen kẽ với tái bón - Thiếu máu: ì giun móc ngoạm niêm mạc ruột để hút máu, nhưng trong lúc hút máu ở miệng thì lại thải ra ở hậu môn và lại tiết ra một chất chống lại sự đông máu thành thử máu cứ rỉ hoài. Chứng thiếu máu này có khi rất trầm trọng: hồng cầu tụt xuống còn 1 triệu tới 2 triệu/mm3 máu (bình thường 4.5- 5.9 triệu/mm3), thể tích huyết cầu còn 20% (bình thường 43%, ở người đàn ông, 39% ở người đàn bà). 4.Giun tóc Trường hợp nhiễm nhẹ thì không có triệu chứng gì cả. Nếu bị nhiễm nặng, th ì có những biểu hiện lâm sàng sau dây: - Đau bụng kèm theo tiêu chảy. - Sa trực tràng (trực tràng lòi ra khỏi hậu môn). - Thiếu máu nhưng chứng nầy là do độc tố của giun tóc tiết ra, h ơn là vì nó hút máu của vật chủ. 5. Giun lươn: Có ba nhóm dấu hiệu lâm sàng chính: a. Dấu hiệu da (gặp trong 10% trường hợp) Ở chỗ ấu trùng đi ngang qua da, da sần đỏ, ngứa nhưng thường bệnh nhân không để ý nếu bị nhiễm nhẹ, có khi ấu trùng di chuyển dưới da ở vùng bụng, mông, hàng, đùi biểu lộ bằng một đường cong, khucs khu ỷu, di động, xuất phát từ hậu môn và tự nhiên biến mất. b. Dấu hiệu phổi: (ít gặp: 3% trường hợp tương ứng, với giao đoạn ấu trùng chu du khi tương đương sự bị nhiễm lần đầu hay bị tái nhiễm: - Ho khan, dằng dai. - Có những cơn suyễn, kiểu dị ứng, tái phát nhiều lần trong ngày, có thể đưa đến chẩn đoán sai lầm. - Chụp X quang thấy những hình ảnh thâm nhiễm không bền. c. Dấu hiệu ruột (thường gặp nhất): - Viêm tá tràng với những cơn đau vùng thượng vị hay hạ sườn phải làm cho có thể lầm tưởng bị loét dạ dàyhay tá tràng nhưng không tu ỳ thuộc vào giờ ăn. - Tiêu chảy xảy ra từng đợt lâu 2-3 tuần rồi tự nhiên ngưng, mỗi ngày đi tiêu 15- 20 lần, phân lỏng như nước. Có khi táo bón, buồn nôn. 6. Sán dải heo và sán dải bò: Trong đa số trường hợp, thường chỉ có 1 con sán dải heo hay b ò trong ruột người cho nên những sán này cũng có khi được gọi là sán cô độc. Nó không gây triệu chứng rõ rệt, nếu có cũng chỉ là triệu chứng khó chịu trong bụng, ăn không ngon, có khi sụt cân, nhức đầu, buồn nôn. Bệnh nhân chỉ phát hiện khi tìm thấy đốt trong phân hay đốt sán tự động ra ngoài. Ngoài ra, người có thể tình cờ bị ấu trùng của sán dải heo nhiễm (ấu trùng sán dải bò rất ít gặp ở người) Có thể nhiễm theo 2 cách: a. Nuốt trứng có phôi vì ăn nhằm đồ ăn hay tay dơ bị vấy phân. Đó là cách nhiễm thông thường nhất, nhưng số lượng trứng nuốt vào thường không nhiều lắm. b. Tự nhiễm: Bình thường những đốt già chứa đựng trứng theo phân ra ngoài. Nhưng một vài đốt già có thể sau khi tách khỏi sán, được đưa lên dạ dày bởi những phân nhu động của ruột. Dịch vị sẽ làm tan, rã đốt và phóng t ...
Tìm kiếm theo từ khóa liên quan:
chuyên ngành y khoa tài liệu y khoa lý thuyết y học giáo trình y học bài giảng y học bệnh lâm sàng chuẩn đoán bệnhGợi ý tài liệu liên quan:
-
38 trang 147 0 0
-
HƯỚNG DẪN ĐIÊU KHẮC RĂNG (THEO TOOTH CARVING MANUAL / LINEK HENRY
48 trang 145 0 0 -
Bài giảng Kỹ thuật IUI – cập nhật y học chứng cứ - ThS. BS. Giang Huỳnh Như
21 trang 142 1 0 -
Access for Dialysis: Surgical and Radiologic Procedures - part 3
44 trang 141 0 0 -
Bài giảng Tinh dầu và dược liệu chứa tinh dầu - TS. Nguyễn Viết Kình
93 trang 140 0 0 -
Tài liệu Bệnh Học Thực Hành: TĨNH MẠCH VIÊM TẮC
8 trang 116 0 0 -
40 trang 91 0 0
-
Bài giảng Chẩn đoán và điều trị tắc động mạch ngoại biên mạn tính - TS. Đỗ Kim Quế
74 trang 85 0 0 -
Bài giảng Thoát vị hoành bẩm sinh phát hiện qua siêu âm và thái độ xử trí
19 trang 79 0 0 -
40 trang 61 0 0