Danh mục

Những tương đồng giữa văn học Việt Nam trong và ngoài nước từ sau năm 1975 đến nay

Số trang: 9      Loại file: pdf      Dung lượng: 119.04 KB      Lượt xem: 3      Lượt tải: 0    
tailieu_vip

Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:

Thông tin tài liệu:

Bài viết chỉ ra những điểm tương đồng giữa văn học Việt Nam ở trong và ngoài nước từ sau năm 1975 đến nay ở những phương diện: Tương đồng về tiến trình vận động; tương đồng trong cảm hứng thiết tha với những giá trị thuộc về bản sắc dân tộc; và tương đồng trong những nỗ lực làm mới nghệ thuật văn chương. Qua những phân tích, kiến giải cụ thể, chúng tôi muốn đưa ra triển vọng hợp lưu cho hai khu vực văn học này.
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Những tương đồng giữa văn học Việt Nam trong và ngoài nước từ sau năm 1975 đến nay JOURNAL OF SCIENCE OF HNUE 2012, Vol. 57, No. 10, pp. 127-135 NHỮNG TƯƠNG ĐỒNG GIỮA VĂN HỌC VIỆT NAM TRONG VÀ NGOÀI NƯỚC TỪ SAU NĂM 1975 ĐẾN NAY Nguyễn Thị Tuyết Nhung Trường Đại học Sư phạm Hà Nội E-mail: nguyennhungvnh@gmail.com Tóm tắt. Bài viết chỉ ra những điểm tương đồng giữa văn học Việt Nam ở trong và ngoài nước từ sau năm 1975 đến nay ở những phương diện: tương đồng về tiến trình vận động; tương đồng trong cảm hứng thiết tha với những giá trị thuộc về bản sắc dân tộc; và tương đồng trong những nỗ lực làm mới nghệ thuật văn chương. Qua những phân tích, kiến giải cụ thể, chúng tôi muốn đưa ra triển vọng hợp lưu cho hai khu vực văn học này. Từ khóa: Tương đồng, văn học Việt Nam, văn học hải ngoại, tiến trình vận động, bản sắc dân tộc, nghệ thuật văn xuôi. 1. Mở đầu Văn học của một dân tộc được ví như một dòng sông lớn, có nhiều nhánh, nhiều ngả rẽ. Khi thì dòng sông ấy ngoặt vào những cánh rừng xanh rậm rạp; lúc lại len lỏi trên những khe ngách của núi đá cao. Dòng sông ấy khi thì chảy băng băng trên những dòng mạch chính; lúc lại âm thầm tách rẽ vào những ngõ ngách quanh co, hoặc đến những nơi xa xôi, heo hút,. . . Văn học Việt Nam cũng có thể được ví như dòng sông ấy. Song song cùng dòng văn học dân gian, dòng văn học viết Việt Nam từ thế kỉ X đến nay đã trải qua nhiều khuất khúc, thăng trầm, đặt trong những hoàn cảnh lịch sử - xã hội khác nhau. Và cũng chính những biến động của lịch sử đã hình thành nên những nhánh, những mạch rẽ ngay trên sinh thể dòng mạch chính của văn học viết Việt Nam. Đó là những hiện tượng thơ văn sáng tác bằng chữ Nôm, đặt cạnh văn học chính thống thời trung đại - văn học viết bằng chữ Hán. Đó là một bộ phận văn học sáng tác ở các đô thị miền Nam Việt Nam từ 1954 đến 1975 đã từng bị “bỏ quên”. Ngoài ra, còn có một mảng ghép đa dạng, phong phú và phức tạp của văn học sáng tác bằng tiếng Việt ở nước ngoài trải dài trong tiến trình lịch sử dân tộc. Mảng văn học hải ngoại này là một sinh thể hiện hữu, sống động, không thể phủ nhận. Và theo sự quan sát của chúng tôi, văn học Việt Nam trong nước và hải ngoại từ sau năm 1975 đến nay, do những nguyên nhân khách quan và chủ quan, hữu thức và vô thức, có những điểm tương đồng khá thú vị. 127 Nguyễn Thị Tuyết Nhung 2. Nội dung nghiên cứu 2.1. Tương đồng trong tiến trình vận động Trong bài viết Thử tìm một lối tiếp cận văn học sử về 25 năm văn học Việt Nam hải ngoại 1975-2000, nhà phê bình văn học Thụy Khuê đưa ra nhận định: “Hai mươi nhăm năm. Một phần tư thế kỷ. Khi nhìn lại chặng đường vừa qua của văn học Việt Nam, người ta nhận thấy do một tình cờ, một định mệnh hay một thần giao cách cảm nào đó, dòng văn học của người Việt sống ở nước ngoài có những lưu lượng ghềnh thác, chung nhịp với dòng văn học đổi mới ở trong nước” [4]. Văn học Việt Nam trong nước sau chiến thắng 30/4/1975 thường được chia thành ba chặng chính. Chặng thứ nhất là 10 năm văn học sau chiến tranh (1975-1985), được coi là chặng khởi động. Thời kì này, văn học Việt trong nước chủ yếu vẫn trượt theo quán tính cũ mà tính sử thi là khuynh hướng bao trùm. Bên cạnh đó, đã xuất hiện những mầm mống của đổi mới văn học, biểu hiện trong những tác phẩm viết về những thời điểm nóng bỏng, khốc liệt, gay cấn nhất của chiến tranh như Trong cơn gió lốc (Khuất Quang Thụy), Năm 75 họ đã sống như thế (Nguyễn Trí Huân), Họ cùng thời với những ai (Thái Bá Lợi), Đất trắng - tập 1 (Nguyễn Trọng Oánh),. . . ; hoặc trong những tác phẩm viết về buổi giao thời từ chiến tranh sang hòa bình như Miền cháy (Nguyễn Minh Châu), Những khoảng cách còn lại (Nguyễn Mạnh Tuấn); những sáng tác mang khuynh hướng hướng về đời sống thế sự - đạo đức như Cha và con và. . . , Gặp gỡ cuối năm, Thời gian của người (Nguyễn Khải), Bức tranh (Nguyễn Minh Châu), Đứng trước biển, Cù lao Tràm (Nguyễn Mạnh Tuấn), Mùa lá rụng trong vườn (Ma Văn Kháng),. . . Đó là trong lãnh địa văn xuôi. Còn trong thơ, không thể không nhắc đến sự xuất hiện của hàng loạt những trường ca của Thanh Thảo, Hữu Thỉnh, Nguyễn Đức Mậu, Nguyễn Duy, thơ của Ý Nhi,. . . Trên sân khấu kịch nói, Lưu Quang Vũ trở thành một hiện tượng chói sáng với những vở kịch tấn công trực diện vào những vấn đề nhức nhối của đời sống, chuẩn bị tích cực cho cuộc chuyển mình mạnh mẽ của văn học khi bước vào thời kì đổi mới. Trên bình diện ý thức nghệ thuật, tháng 11/1978, trên báo Văn nghệ Quân đội có bài viết tựa đề Viết về chiến tranh của Nguyễn Minh Châu, ngụ ý phê bình nền văn học miền Bắc trước 1975 và Việt Nam sau 1975, chưa có tiểu thuyết thực sự về chiến tranh. Rồi ngày 9/6/1979, trên tờ Văn n ...

Tài liệu được xem nhiều:

Gợi ý tài liệu liên quan: