Danh mục

Những vấn đề ôn tập môn Triết học Mác-Lênin

Số trang: 31      Loại file: docx      Dung lượng: 153.68 KB      Lượt xem: 18      Lượt tải: 0    
Thư viện của tui

Xem trước 3 trang đầu tiên của tài liệu này:

Thông tin tài liệu:

Những vấn đề ôn tập môn Triết học Mác-Lênin gồm các câu hỏi ôn tập và hướng dẫn trả lời giúp sinh viên củng cố kiến thức được học, ôn thi hiệu quả.
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Những vấn đề ôn tập môn Triết học Mác-Lênin NHỮNGVẤN ĐỀ ÔN TẬP MÔN: Triết học Mác ­ Lênin 1. Tính tất yếu và thực chất của cuộc cách mạng trong  triết học do Mác và  Ảngghen  thực hiện. a. Tính tất yếu và ý nghĩa của việc ra đời chủ nghĩa Mác­Lênin? “Sự ra đời và phát triển của triết học Mác không phải từ mãnh đất trống không hoang dã   mà là sự  kế  thừa có chọn lọc, có phê phán thành tựu lý luận mà nhân loại đã đạt được   trước đó, trên cơ sở những thành tựu khoa học tự  nhiên đương thời cùng với những yếu tố   chủ quan của Mác­Angghen trong một giai đoạn lịch sử nhất định”. Trong giai đoạn lịch sử này đã hội tụ được 3 tiền đề và yếu tố chủ quan của mác­Anghhen   để ra đời triết học Mác: Những tiền đề: i. Điều kiện kinh tế­xã hội:  Vào những năm 40 triết học thế  kỷ  XIX, xã hội tây âu có  những biến động to lớn & điều này đã ảnh hưởng trực tiếp đến sự hình thành và phát triển  của triết học Mác, bởi vì tư  duy lý luận của mỗi thời đại là sản phẩm của lịch sử và điều   kiện kinh tế xã hội của lịch sử lúc bấy giờ. Đây là quan điểm nhất nguyên luận duy vật về  lịch sử. Vào thời kỳ này ở tây âu phương thức sản xuất (PTSX) tư bản chủ nghĩa (TBCN) đã  đạt được những bước tiến hết sức quan trọng nó ảnh hưởng đến tư  duy lý luận của thời   đại. Điều đáng chú ý nhất về  kinh tế  của thời kỳ  này là sự  phát triển của lực lượng sản   xuất điều đó được đánh dấu bởi sự  xuất hiện của công nghiệp chế  tạo máy và việc áp  dụng nó vào trong quá trình SX. Trong các nước tây âu lúc bấy giờ Pháp là một trong những  nước có nền kinh tế  tương đối phát triển số  lượng máy hơi nước tương đối nhiều. Năm  1830 nước Pháp có 625 máy hơi nước nhưng đến năm 1847 đã có 4853 máy hơi nước trong  đó có các nước Đức, Anh thì số lượng máy hơi nước ít hơn nhiều (số lượng máy hơi nước   đánh trình độ phát triển của lực lượng sản xuất của dân tộc, của thời đại. Sự phát triển về mặt kinh tế dẫn đến những biến đổi trong đời sống XH. Lực lượng  sản xuất phát triển làm cho mâu thuẩn giữa giai cấp vô sản (GCVS) và giai cấp tư  sản   (GCTS) ngày càng trở  nên gay gắt, các cuộc bãi công biểu tình xuất hiện ngày càng nhiều   và hầu khắp các nước tư bản. Trong đó đáng chú ý nhất là cuộc bãi công của công nhân dệt   của thành phố Lion, Pháp, tháng 11/1831 tiếp đến là phong trào hiến chương nhân dân ở Anh  tháng 6/1836 và sau đó là cuộc khởi nghĩa của công nhân dệt  ở  Đức tháng 6/1844… các  phong trào này đòi hỏi phải có lý luận dẫn đường. Sự ra đời của triết học Mác nói riêng và   chủ nghĩa Mác nói chung là nhằm đáp ứng đòi hỏi của lịch sử đặt ra. ii) Tiền đề khoa học tự nhiên. Vào thời đại của Mác và Ăngghen, khoa học tự  nhiên đạt được những thành tựu đáng kể,   chính những thành tựu này đã  ảnh hưởng trực tiếp đến sự  hình thành quan điểm duy vật  cũng như phương pháp biện chứng của Mác và Ăngghen. Trong số đó có 3 phát minh mang  tính chất vạch thời đại đó là: (1) Định luật bảo toàn và chuyển hóa năng lượng (1842­1845);   (2) Học thuyết tế bào; (3) Học thuyết tiến hóa của Đác Uyn.  a) Định luật bảo toàn và chuyển hoá năng lương đã dẫn đến kết luận triết học là sự  phát   triển của vật chất là một quá trình vô tận của sự  chuyển hoá những hình thức vận động  của chúng. b) Thuyết tế bào xác định sự thống nhất về mặt nguồn gốc và hình thức giữa động vật và   thực vật;  c) Thuyết tiến hoá của Đác uyn đã khắc phục được quan điểm cho rằng giữa thực vật và   động vật không có sự liên hệ; là bất biến; do Thượng Đế tạo ra và đem lại cho sinh học cơ  1 sở khoa học, xác định tính biến dị và di truyền giữa các loài.  Ba phát minh này đã ảnh hưởng trực tiếp đến sự hình thành và phát triển của triết học Mác  và Ăngghen, có viết rằng “Nhờ 3 phát hiện vĩ đại đó và nhờ  những thành tựu lớn lao khác  của KH tự  nhiên mà ngày nay chúng ta có thể  chứng minh những nét lớn của mối liên hệ  giữa các quá trình của tự  nhiên, không những trong các lĩnh vực riêng biệt mà cả  mối liên  hệ giữa các lĩnh vực riêng biệt ấy nói chung và có thể trình bày một bức tranh bao quát về  mối liên hệ trong tự nhiên dưới hình thức gần như có hệ thống bằng các sự  kiện do chính   KH tự nhiên thực nghiệm cung cấp. iii) Tiền đề lý luận Sự xuất hiện của triết học Mác là kết quả của sự kế thừa có chọn lọc, có phê phán có phát   triển những thành tựu lý luận của nhân loại đã đạt được lúc đó. Trong đó trực tiếp là triết  học cổ điển Đức, kinh tế chính trị học cổ điển Anh và CNXH học Pháp. Trong đó triết học   cổ điển Đức giữ một vai trò hết sức quan trọng (có 3 nhân vật: Người mở đầu là Ông  Can­ tơ, Hêghen, Phoi ơ Bắc). a) + Hêghen là nhà triết học duy tâm Đức (1770­1831): Công lao lớn nhất của ông về  mặt  triết học đó cũng là đóng góp quan trọng nhất của Hêghen là phép biện chứng (BC)  đầy đủ  và có hệ thống là các qui luật của phép BC, nhưng rất tiếc phép BC của Hêghen lại là phép   BC duy tâm không dùng được là đi ngược đầu xuống đất. Trong phép BC của Heghen thì ...

Tài liệu được xem nhiều:

Gợi ý tài liệu liên quan: