Danh mục

Những xử trí lâm sàng chủ yếu trong điều trị viêm gan

Số trang: 23      Loại file: pdf      Dung lượng: 187.25 KB      Lượt xem: 10      Lượt tải: 0    
Hoai.2512

Hỗ trợ phí lưu trữ khi tải xuống: 19,000 VND Tải xuống file đầy đủ (23 trang) 0

Báo xấu

Xem trước 3 trang đầu tiên của tài liệu này:

Thông tin tài liệu:

Để gia tăng số lượng những bệnh nhân đạt được một đáp ứng virus kéo dài (SVR: sustained viral response) với những điều trị có khả năng hiện nay, những phương pháp mới tập trung vào các hướng điều trị để đạt được đáp ứng tối đa của điều trị peginterferon và ribavirin. Quá trình điều trị của mỗi cá thể dựa vào việc đáp ứng virus, liều tối đa dùng ribavirin, đặc biệt có sự khác nhau về hiệu quả điều trị ở những chủng tộc khác nhau, chẳng hạn như ở người da đen thì khó điều...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Những xử trí lâm sàng chủ yếu trong điều trị viêm gan Những xử trí lâm sàng chủ yếu trong điều trị viêm ganĐể gia tăng số lượng những bệnh nhân đạt được một đáp ứng virus kéo dài (SVR:sustained viral response) với những điều trị có khả năng hiện nay, những phươngpháp mới tập trung vào các hướng điều trị để đạt được đáp ứng tối đa của điều trịpeginterferon và ribavirin. Quá trình điều trị của mỗi cá thể dựa vào việc đáp ứngvirus, liều tối đa dùng ribavirin, đặc biệt có sự khác nhau về hiệu quả điều trị ởnhững chủng tộc khác nhau, chẳng hạn nh ư ở người da đen thì khó điều trị.Những phương pháp mới nhằm đạt SVR ở những bệnh nhân xơ gan đã được tậptrung trong những công bố gần đây. Ưu điểm của việc đạt được SVR ở nhữngbệnh nhân xơ gan tiến triển là rất đáng kể, và hiện nay có thêm bằng chứng chứngminh những kết quả này. Những phương pháp điều trị mới đã xuất hiện trong việcđiều trị viêm gan virus B, cung cấp một loạt các phương pháp điều trị để đáp ứngnhu cầu điều trị thích hợp cho từng tình huống bệnh nhân của chúng ta. Cuốicùng, thông tin mới nhấn mạnh sự quan trọng của việc lựa chọn cẩn thận nhữngthuốc chống virus, đặc biệt đối với những người đồng nhiễm HIV.Bài này tóm tắt một vài những thay đổi gần đây và có liên quan đến lâm sàngtrong việc điều trị viêm gan virus B và C, nhấn mạnh những phương pháp điều trịmới mà có thể bổ sung ngay lập tức với những phương cách điều trị có khả thihiện nay. Thêm vào đó, bài này sẽ nêu những phát hiện chủ yếu khác trong việcnhiễm viêm gan virus E (HEV) và nh ững phương cách mới đối với việc điều trịcác bệnh nhân có bệnh não gan liên quan đến giai đoạn cuối của bệnh gan.I.Điều trị bệnh nhân viêm gan C genotype 2 hay 3Khoảng 70 đến 90% các bệnh nhân bị nhiễm virus viêm gan C genotype 2 hay 3đạt SVR khi được điều trị trong 24 tuần với peginterferon và một liều phối hợpribavirin 800 mg/ ngày.Hiệu quả điều trị không tăng đáng kể khi điều trị kéo dàiđến 48 tuần hay khi nhận liều ribavirin dựa vào cân nặng. Những nghiên cứu banđầu cho thấy rằng quá trình điều trị có thể giảm xuống 16, 14, hay 12 tuần màkhông ảnh hưởng lớn đến tỉ lệ SVR trong những bệnh nhân có được một sự âmtính virus ở tuần thứ tư điều trị (đáp ứng virus nhanh- RVR: rapid virologicresponse). Bởi vì hầu hết (> 65%) các bệnh nhân bị nhiễm HCV genotype 2 hay 3đạt được RVR thì những nghiên cứu ban đầu này cho thấy rằng quá trình điều trịngắn hơn có thể tốt cho một số lượng lớn các bệnh nhân.Tuy nhiên, trái ngược với những nghiên cứu định hướng đầu tiên, nghiên cứu gầnđây hơn bao gồm một số lượng lớn bệnh nhân đã cho thấy một cách rõ ràng rằngkết quả của việc điều trị ngắn đối với những người bị nhiễm genotype 2 hay 3 l àviệc giảm tỉ lệ SVR thậm chí là ở cả những bệnh nhân đạt được RVR. Shiffman vàcộng sự đã thực hiện một nghiên cứu lớn, ngẫu nhiên (N= 1469), so sánh việcđiều trị peginterferon alfa-2a và ribavirin liều cố định ở những bệnh nhân bị nhiễmHCV genotype 2 hay 3 trong 16 tuần và 24 tuần. Trong phân tích của họ thì tỉ lệSVR ở nhóm 24 tuần là 70%, cao hơn có ý nghĩa thống kê đối với 62% ở nhómđiều trị 16 tuần (P < .001). Việc tốt hơn của nhóm điều trị 24 tuần đã được duy trìthậm chí trong những bệnh nhân đạt được RVR- 85% những bệnh nhân điều trịtrong nhóm 24 tuần đạt được RVR đã chứng minh là SVR so với 79% ở nhómđiều trị 16 tuần (P = .02) (bảng 1). Trái lại, những bệnh nhân với một nồng độHCV RNA ban đầu ≤ 400,000 IU/mL thì tốt tương đương nhau ở nhóm điều trị 16so với nhóm điều trị 24 tuần (82% so với 81% SVR ở từng nhóm). Việc giảm tỉ lệSVR ở nhóm điều trị 16 tuần hầu hết là bởi vì tỉ lệ tái phát gia tăng so với chế độđiều trị 24 tuần (P < .001). Nghiên cứu này cũng ghi nhận tỉ lệ SVR thấp hơn điềumong đợi ở những người bị nhiễm HCV genotype 2 hay 3 không đạt được RVR,với tỉ lệ SVR là 45% ở những người được điều trị trong 24 tuần và chỉ 26% nếuđược điều trị 16 tuần. Nghiên cứu này đã kết luận rằng chế độ điều trị 16 tuần vớiviệc dùng peginterferon và ribavirin liều cố định thì kém hơn so với chế độ điều trị24 tuần, thậm chí ở cả những bệnh nhân đạt được RVR.Bảng 1. Thời gian điều trị Giá trị PSVR (%) 16 tuần 24 tuầnĐặt mục tiêu điều trị Genotype bất kỳ 62 70 < .001  Genotype 2 62 75 < .001  Genotype 3 62 66 .23 RVR tại tuần thứ 4 Genotype bất kỳ 79 85 .02  Genotype 2 78 85 NR  Genotype 3 80 85 NR Không đạt RVR ở tuần thứ 4 Genotype bất kỳ 26 45 NR  Genotype 2 26 53 NR  Genotype 3 26 39 NR HCV RNA lúc ban đầu, IU/mL ≤ 400.000 82 81 NS NR, not reported; NS, not significantDal ...

Tài liệu được xem nhiều: