Tiếng Cơ-tu gọi là paprăbhma, không rõ ai đã dịch ra là nói lý. Theo một số cán bộ Kinh sống lâu năm biết sâu tiếng Cơ-tu thì cho rằng dịch như vậy chưa chính xác, nhưng chúng ta dùng quen miệng, quen tai, ngầm hiểu rằng nói lý không phải là nói lý lẽ, là biện luận dài dòng, bắt bẻ kẻ đối thoại với mình buộc họ phải chấp nhận quan điểm của mình là đúng. Nói lý chỉ là nêu lên một hình ảnh thể hiện được toàn diện và bao quát nhận thức của mình đối...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Nói lý và hát lý của đồng bào Cơtu
Nói lý và hát lý của đồng bào Cơtu
Tiếng Cơ-tu gọi là paprăbhma, không rõ ai đã dịch ra là nói lý. Theo một số cán bộ
Kinh sống lâu năm biết sâu tiếng Cơ-tu thì cho rằng dịch như vậy chưa chính xác,
nhưng chúng ta dùng quen miệng, quen tai, ngầm hiểu rằng nói lý không phải là nói
lý lẽ, là biện luận dài dòng, bắt bẻ kẻ đối thoại với mình buộc họ phải chấp nhận
quan điểm của mình là đúng. Nói lý chỉ là nêu lên một hình ảnh thể hiện được toàn diện
và bao quát nhận thức của mình đối với sự việc, không kèm theo lý lẽ, không có phân
tích, nhưng lại làm cho người nghe cảm thấy ý kiến của mình là đúng và chấp nhận.
Các đêm có trăng, khi trời trong mát, các chàng trai, cô gái chưa vợ, chưa chồng thường
rủ nhau ra chòi rẫy chuyện trò, tìm hiểu nhau, hẹn hò xe tơ kết tóc, hứa giữ tình chung
thủy, xây đắp mộng vàng. Họ nói chuyện thủ thỉ tâm tình, và hát những câu hát trữ tình
qua tiếng trầm bổng của đàn môi (một loại nhạc cụ đồng dài độ 8-l0cm, có lưỡi gà
mỏng như lá lúa), người hát để đàn môi trên môi, dùng một ngón tay gảy nhẹ, làm cho
lưỡi gà rung lên và khéo léo hát vào tiếng rung đó. Không có câu hát sẵn, phải ứng khẩu
hát nên vần, nên điệu, phải nêu cho được cái hình ảnh đẹp đẽ nhất, sâu sắc nhất, bộc lộ
một cách kín đáo nỗi lòng của mình. Hát như vậy gọi là hát tình ý với nhau của đôi nam
nữ (theo tiếng Cơ-tu Bhnooch hoặc Bh'bh'ooch mà ai đó đã dịch ra là hát lý).
Mới nghe qua, chúng ta có thể lầm tưởng rằng nói lý, hát lý của đồng bào Cơ-tu là nói ví
dụ, là hát hò khoan theo điệu và kiểu của dân tộc, không đơn giản như vậy. Hình ảnh nêu
ra nghe gần gần, xa xa, có nhiều ẩn ý, có chiều sâu về tâm lý và nhận thức, hình ảnh đó
quen thuộc với mọi người nhưng lại buộc người nghe phải suy nghĩ để thấy hết mọi khía
cạnh của hình ảnh đó. Thật là độc đáo, muốn nói lý, hát lý hay, sâu sắc, trước hết phải
hiểu vấn đề nêu ra một cách tường tận. Phải chọn hình ảnh thật chính xác, thật chết lý
làm cho người nghe không thể vin vào những sơ hở để bắt bẻ hoặc hiểu lầm. Nói một
cách khác, người nói lý và hát lý hay, ngoài việc ăn nói lưu loát, nhanh trí tìm ra vần, biết
lên bổng xuống trầm đúng lúc, đúng điệu, thì điều cơ bản là phải hiểu cho rành rọt đất
nước, tài nguyên, hiểu xã hội, con người đang sống ở vùng đất đó. Nói tên một con suối
phải biết đó là con suối cát hay đá, nước trong hay đục, sâu hay cạn, bốn mùa có nước
hay chỉ có trong mùa mưa. Biết tường tận như vậy thì khi nghe người hát nêu tên con
suối là biết ngay họ nói đến cái tốt, cái trong sạch, cái bền bỉ thủy chung, hay là cái xấu,
cái dơ bẩn, cái tạm thời không ổn định. Cây lan biểu hiện sự yêu mến, cây kiền kiền, cây
lim biểu hiện tính kiên cường vững chắc. Nêu tên con khỉ là con vật phá hoại mùa màng,
phá hoại cuộc sống, phá táo tợn hơn con heo rừng, là kẻ thù của sản xuất, ngoan cố nhất,
khó trừng trị nhất.
Nêu lên con người nhịp tạ (một cách đánh thanh la bằng đồng) là nêu lên hình ảnh kẻ
nhát gan, run sợ, vì người nhịp tạ giỏi, điêu luyện, có hồn nghệ sĩ, là vừa nhịp tạ, vừa
nhớm chân, cúi xuống, ngẩng lên, toàn thân rung lên như tiếng tạ, đó là một hình ảnh kẻ
quá sợ hãi, tay run bần bật. Cùng một hình ảnh, nhưng từng vùng, từng lúc ý nghĩa có
khác nhau; người có uy tín, ăn nói vững vàng nhưng lại nói, lại hát những điều mới nghe
như ngớ ngẩn, vậy phải hiểu sau cái ngớ ngẩn là cái gì, ý đồ của người nói là thế nào.
Không tính toán sâu sắc, thì có thể người nói, người hát muốn nói đen ta lại hiểu lầm là
trắng, muốn nói phải ta hiểu lầm là trái, họ phản đối ta tưởng họ tán thành. Đó là điều hết
sức phức tạp, hết sức khó khăn trong nói lý, hát lý.
Nói chung đồng bào đều biết nói lý, hát lý, biết từ lúc nhỏ, từ lúc gùi được nước uống,
biết cầm cán rựa, con dao tham gia làm rẫy. Nhưng nói lý, hát lý sâu xa, nhiều tầng,
nhiều lớp, pha lẫn tiếng Cơ-tu và tiếng Kinh, nói lý và hát lý để đả thông tư tưởng, giải
quyết được công việc thì mỗi bản, mỗi thôn, mỗi vùng chỉ có một vài người. Nói lý, hát
lý xem ra rất khó, nhưng hiểu được nói lý, hát lý càng khó hơn. Người hát lúc cất cao
giọng ngân nga, lúc hạ giọng, hát lầm thầm trong cổ họng, có lúc nói chậm từng câu,
từng tiếng, có lúc dồn dập, đúng điệu, đúng phong cách.
Hát là phải hát có vần, phải xuôi vần, thuận tai, cho nên người hát có lúc dặm thêm nhiều
tiếng đệm không có lời có nội dung, với lời chỉ để lấy vần, thì không nắm được ý nghĩa
câu hát hoặc hiểu sai lệch. Thường sau các cuộc họp giữa thôn này, thôn khác, xã này, xã
khác, hay các cuộc gặp để giải quyết cưới xin, nợ nần, giải quyết một số vụ mất đoàn kết,
những vụ tranh chấp đất rừng, khe suối, nhất định có kết thúc bằng hát lý. Cả ngày, cả
buổi gặp nhau, hai bên trình bày ý kiến, lý lẽ của mình,bàn qua cãi lại nhất trí một số
điểm. Có thể còn có một số ý kiến khác nhau, cả hai bên đều chờ ý kiến của người có uy
tín nhất của mỗi bên, tất nhiên người đó thường không kết luận ngay, mà chờ đợi đến tối
uống rượu, hát lý. Qua câu hát, ý kiến sẽ được trình bà ...