Nước bọt và tác dụng trị liệu
Số trang: 5
Loại file: pdf
Dung lượng: 136.67 KB
Lượt xem: 8
Lượt tải: 0
Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:
Thông tin tài liệu:
Nước bọt (NB) còn có các tên khác như nước dãi, nước miếng. Nó là sản phẩm bài tiết của các tuyến nước bọt, ngoài chức năng khởi phát cho sự tiêu hóa, nó còn nhiều chức năng quan trọng khác. Tuy nhiên không chỉ có thế, NB còn có tác dụng trị liệu trong y học phương Đông. Và ngày nay y học hiện đại cũng nghiên cứu NB vào điều trị. Một chất dịch đặc biệt NB là dịch lỏng, trong suốt, không màu, quánh, pH 6,5; có nhiều chức năng quan trọng như: tiêu hóa (có enzym...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Nước bọt và tác dụng trị liệu Nước bọt và tác dụng trị liệuNước bọt (NB) còn có các tên khác như nước dãi, nướcmiếng. Nó là sản phẩm bài tiết của các tuyến nước bọt,ngoài chức năng khởi phát cho sự tiêu hóa, nó còn nhiềuchức năng quan trọng khác. Tuy nhiên không chỉ có thế,NB còn có tác dụng trị liệu trong y học phương Đông. Vàngày nay y học hiện đại cũngnghiên cứu NB vào điều trị.Một chất dịch đặc biệtNB là dịch lỏng, trong suốt,không màu, quánh, pH 6,5; cónhiều chức năng quan trọng như:tiêu hóa (có enzym thủy phântinh bột), bôi trơn (giúp cho các Lấy mẫu nước bọt để xéthoạt động nhai, nuốt và nói), làm nghiệm.sạch (loại bỏ những mảnh vụnthức ăn ở miệng và răng), tái khoáng hóa (giúp lành sâurăng ở giai đoạn sớm), bảo vệ (như một yếu tố kháng khuẩnchống lại vi sinh vật và trung hòa acid do mảng bám vikhuẩn sinh ra).Khoa học hiện đại đã chứng minh trong NB có hơn chụcloại enzym, nhiều vitamin và các nguyên tố vi lượng, cácacid hữu cơ và hormon cần thiết cho cơ thể. Ví dụ, ngoàimen amylase tiêu hóa, còn có lysozyme kháng khuẩn,immunoglobulin tăng cường miễn dịch, muccus protein bảovệ niêm mạc dạ dày...Nước bọt với y học phương ĐôngCác thầy thuốc đời xưa rất trọng nước bọt, coi nó như mộtvị thuốc, có tác dụng cầm máu kỳ diệu, mau làm lành vếtthương. Trong các sách thuốc cổ, NB còn được gọi bằngnhiều mỹ từ như: thần thủy, ngọc tuyền, quỳnh dịch, haykim tân ngọc dịch... Theo y học phương Đông, thì NBthuộc loại tân dịch mà tân dịch có sự kết hợp tinh tuý nhấtgiữa nước và ngũ cốc. Tân dịch là chất bổ dưỡng đối với cơthể, làm cho da mềm mại, tăng tính đàn hồi, bôi trơn cáckhớp xương, bổ dưỡng não và tủy sống, thông khiếu, làmcho sáng mắt... Lý Thời Trân, danh y Trung Quốc thế kỷ 16, có ghi rõtrong bộ sách Bản thảo cương mục như sau: NB vị mặn,tính bình, không độc. Dùng chữa mụn nhọt sưng đau, ghẻlở, phỏng da, còn có tác dụng làm sáng mắt, phá tan màngmộng, giải độc, trừ tà độc và ngộ độc vì thủy ngân. Trongsách còn ghi thêm: Muốn có NB tốt thì sáng sớm thức dậychưa ăn uống gì, chưa nói gì, dùng NB mới tiết ra bôi ngaylên mụn nhọt. Còn Trương Cảnh Nhạc (danh y đời nhàMinh, Trung Quốc) thì viết: Nuốt NB có thể sống lâu, trừđược nhiều bệnh, bồi bổ ngũ tạng và làm khỏe cơ, đẹp da.Và y học hiện đạiNghiên cứu về NB, TS. Stanley Cohen (nhà khoa học Mỹđã từng được giải Nobel về y sinh lý) đã phát hiện trongNB có chứa một yếu tố sinh trưởng biểu bì, có tác dụng táitạo và nhân lên số lượng tế bào da. Ngoài ra trong NB còncó chứa một lượng nhỏ các chất có hoạt tính sinh học khácnhư yếu tố sinh trưởng thần kinh, có tác dụng kích thích sựphân hóa và tái tạo tế bào thần kinh cảm giác và thần kinhgiao cảm.Một nghiên cứu khác cũng ở Mỹ, người ta quan sát thấy khibị thương các con vật thường hay liếm vết thương củamình. Qua hiện tượng này, các nhà khoa học nghĩ rằng,theo bản năng, động vật đã biết sử dụng NB để giúp maulành vết thương, đồng thời chống lại sự xâm nhập của vikhuẩn. Để kiểm chứng, các nhà sinh học Mỹ đã nghiên cứuxác định được trong NB có chứa một loại protein thiênnhiên Secretory Leucocyte Protease Inhibitor tác động nhưmột chất chống viêm, đồng thời còn có tác dụng đối khángvới sự thoái hóa biến chất của nhiều protein trong cơ thể,đặc biệt ở giữa lớp biểu bì. Mặt khác, loại protein này cònchống lại các tác nhân gây viêm nhiễm từ nhiều chủng loạivi sinh vật kể cả nấm gây bệnh. Vấn đề này đang được tíchcực nghiên cứu trên chuột phòng thí nghiệm, và người tacho rằng nó sẽ là chìa khóa mở ra những viễn cảnh tốt đẹptrong việc điều trị các bệnh ngoài da, cũng như trong phẫuthuật.Còn các nhà khoa học Pháp, thuộc Viện Pasteur lại nghiêncứu phát hiện trong NB của người có một chất chống đautự nhiên. Khi thử trên súc vật, các nhà khoa học thấy chấtnày có tác dụng giảm đau mạnh hơn nhiều lần morphin, vàhọ đặt tên cho chất đó là opiorphin là dạng phân tử sinh ratự nhiên và có thể chuyển hóa nhanh chóng. Qua những thửnghiệm trên chuột cho thấy: khi tiêm 1mg opiorphin trên1kg trọng lượng chuột có công dụng giảm đau ngang vớitiêm từ 3-6mg morphin. Các nhà nghiên cứu vấn đề nàycho biết, họ đang liên hệ với một hãng dược phẩm và hyvọng sẽ có sự hợp tác nghiên cứu sâu hơn để sớm có loạithuốc giảm đau opiorphin trong thời gian tới.
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Nước bọt và tác dụng trị liệu Nước bọt và tác dụng trị liệuNước bọt (NB) còn có các tên khác như nước dãi, nướcmiếng. Nó là sản phẩm bài tiết của các tuyến nước bọt,ngoài chức năng khởi phát cho sự tiêu hóa, nó còn nhiềuchức năng quan trọng khác. Tuy nhiên không chỉ có thế,NB còn có tác dụng trị liệu trong y học phương Đông. Vàngày nay y học hiện đại cũngnghiên cứu NB vào điều trị.Một chất dịch đặc biệtNB là dịch lỏng, trong suốt,không màu, quánh, pH 6,5; cónhiều chức năng quan trọng như:tiêu hóa (có enzym thủy phântinh bột), bôi trơn (giúp cho các Lấy mẫu nước bọt để xéthoạt động nhai, nuốt và nói), làm nghiệm.sạch (loại bỏ những mảnh vụnthức ăn ở miệng và răng), tái khoáng hóa (giúp lành sâurăng ở giai đoạn sớm), bảo vệ (như một yếu tố kháng khuẩnchống lại vi sinh vật và trung hòa acid do mảng bám vikhuẩn sinh ra).Khoa học hiện đại đã chứng minh trong NB có hơn chụcloại enzym, nhiều vitamin và các nguyên tố vi lượng, cácacid hữu cơ và hormon cần thiết cho cơ thể. Ví dụ, ngoàimen amylase tiêu hóa, còn có lysozyme kháng khuẩn,immunoglobulin tăng cường miễn dịch, muccus protein bảovệ niêm mạc dạ dày...Nước bọt với y học phương ĐôngCác thầy thuốc đời xưa rất trọng nước bọt, coi nó như mộtvị thuốc, có tác dụng cầm máu kỳ diệu, mau làm lành vếtthương. Trong các sách thuốc cổ, NB còn được gọi bằngnhiều mỹ từ như: thần thủy, ngọc tuyền, quỳnh dịch, haykim tân ngọc dịch... Theo y học phương Đông, thì NBthuộc loại tân dịch mà tân dịch có sự kết hợp tinh tuý nhấtgiữa nước và ngũ cốc. Tân dịch là chất bổ dưỡng đối với cơthể, làm cho da mềm mại, tăng tính đàn hồi, bôi trơn cáckhớp xương, bổ dưỡng não và tủy sống, thông khiếu, làmcho sáng mắt... Lý Thời Trân, danh y Trung Quốc thế kỷ 16, có ghi rõtrong bộ sách Bản thảo cương mục như sau: NB vị mặn,tính bình, không độc. Dùng chữa mụn nhọt sưng đau, ghẻlở, phỏng da, còn có tác dụng làm sáng mắt, phá tan màngmộng, giải độc, trừ tà độc và ngộ độc vì thủy ngân. Trongsách còn ghi thêm: Muốn có NB tốt thì sáng sớm thức dậychưa ăn uống gì, chưa nói gì, dùng NB mới tiết ra bôi ngaylên mụn nhọt. Còn Trương Cảnh Nhạc (danh y đời nhàMinh, Trung Quốc) thì viết: Nuốt NB có thể sống lâu, trừđược nhiều bệnh, bồi bổ ngũ tạng và làm khỏe cơ, đẹp da.Và y học hiện đạiNghiên cứu về NB, TS. Stanley Cohen (nhà khoa học Mỹđã từng được giải Nobel về y sinh lý) đã phát hiện trongNB có chứa một yếu tố sinh trưởng biểu bì, có tác dụng táitạo và nhân lên số lượng tế bào da. Ngoài ra trong NB còncó chứa một lượng nhỏ các chất có hoạt tính sinh học khácnhư yếu tố sinh trưởng thần kinh, có tác dụng kích thích sựphân hóa và tái tạo tế bào thần kinh cảm giác và thần kinhgiao cảm.Một nghiên cứu khác cũng ở Mỹ, người ta quan sát thấy khibị thương các con vật thường hay liếm vết thương củamình. Qua hiện tượng này, các nhà khoa học nghĩ rằng,theo bản năng, động vật đã biết sử dụng NB để giúp maulành vết thương, đồng thời chống lại sự xâm nhập của vikhuẩn. Để kiểm chứng, các nhà sinh học Mỹ đã nghiên cứuxác định được trong NB có chứa một loại protein thiênnhiên Secretory Leucocyte Protease Inhibitor tác động nhưmột chất chống viêm, đồng thời còn có tác dụng đối khángvới sự thoái hóa biến chất của nhiều protein trong cơ thể,đặc biệt ở giữa lớp biểu bì. Mặt khác, loại protein này cònchống lại các tác nhân gây viêm nhiễm từ nhiều chủng loạivi sinh vật kể cả nấm gây bệnh. Vấn đề này đang được tíchcực nghiên cứu trên chuột phòng thí nghiệm, và người tacho rằng nó sẽ là chìa khóa mở ra những viễn cảnh tốt đẹptrong việc điều trị các bệnh ngoài da, cũng như trong phẫuthuật.Còn các nhà khoa học Pháp, thuộc Viện Pasteur lại nghiêncứu phát hiện trong NB của người có một chất chống đautự nhiên. Khi thử trên súc vật, các nhà khoa học thấy chấtnày có tác dụng giảm đau mạnh hơn nhiều lần morphin, vàhọ đặt tên cho chất đó là opiorphin là dạng phân tử sinh ratự nhiên và có thể chuyển hóa nhanh chóng. Qua những thửnghiệm trên chuột cho thấy: khi tiêm 1mg opiorphin trên1kg trọng lượng chuột có công dụng giảm đau ngang vớitiêm từ 3-6mg morphin. Các nhà nghiên cứu vấn đề nàycho biết, họ đang liên hệ với một hãng dược phẩm và hyvọng sẽ có sự hợp tác nghiên cứu sâu hơn để sớm có loạithuốc giảm đau opiorphin trong thời gian tới.
Tìm kiếm theo từ khóa liên quan:
y học phổ thông kiến thức sức khoẻ y tế sức khoẻ cách chăm sóc sức khoẻ nghiên cứu y họcGợi ý tài liệu liên quan:
-
Tổng quan hệ thống về lao thanh quản
6 trang 314 0 0 -
5 trang 306 0 0
-
8 trang 260 1 0
-
Tổng quan hệ thống hiệu quả kiểm soát sâu răng của Silver Diamine Fluoride
6 trang 252 0 0 -
Vai trò tiên lượng của C-reactive protein trong nhồi máu não
7 trang 237 0 0 -
Phương pháp lọc màng bụng cho những người bệnh suy thận
6 trang 232 0 0 -
Khảo sát hài lòng người bệnh nội trú tại Bệnh viện Nhi Đồng 1
9 trang 223 0 0 -
13 trang 202 0 0
-
5 trang 201 0 0
-
8 trang 201 0 0
-
Tình trạng viêm lợi ở trẻ em học đường Việt Nam sau hai thập niên có chương trình nha học đường
4 trang 196 0 0 -
9 trang 196 0 0
-
12 trang 195 0 0
-
7 trang 191 0 0
-
6 trang 188 0 0
-
6 trang 186 0 0
-
Thực trạng rối loạn giấc ngủ ở lái xe khách đường dài và tai nạn giao thông ở Việt Nam
7 trang 186 0 0 -
7 trang 182 0 0
-
5 trang 181 0 0
-
5 trang 181 0 0