Nuôi con bằng sữa mẹ: Lợi ích kép
Số trang: 5
Loại file: pdf
Dung lượng: 140.78 KB
Lượt xem: 7
Lượt tải: 0
Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:
Thông tin tài liệu:
Nuôi con bằng sữa mẹ (NCBSM) là phương pháp nuôi dưỡng tự nhiên có nghĩa là trẻ được bú trực tiếp từ vú mẹ hoặc từ các bà mẹ khác hoặc sữa mẹ được vắt ra. Sữa mẹ được sản xuất từ vú trong những tháng cuối của thai kỳ. Sữa tiết ra trong vài ngày đầu sau đẻ gọi là sữa non. Sữa non có màu hơi vàng sánh đặc có nhiều protein, vitamin A và các thành phần miễn dịch. Sữa non có tác dụng xổ nhẹ đào thải phân su, giảm mức độ vàng da, có yếu...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Nuôi con bằng sữa mẹ: Lợi ích kép Nuôi con bằng sữa mẹ: Lợi ích képNuôi con bằng sữa mẹ (NCBSM) là phương pháp nuôi dưỡng tự nhiên cónghĩa là trẻ được bú trực tiếp từ vú mẹ hoặc từ các bà mẹ khác hoặc sữa mẹđược vắt ra.Sữa mẹ được sản xuất từ vú trong những tháng cuối của thai kỳ. Sữa tiết ratrong vài ngày đầu sau đẻ gọi là sữa non. Sữa non có màu hơi vàng sánh đặccó nhiều protein, vitamin A và các thành phần miễn dịch. Sữa non có tácdụng xổ nhẹ đào thải phân su, giảm mức độ vàng da, có yếu tố tăng trưởngbiểu bì giúp cho ruột trưởng thành phòng chống dị ứng, không dung nạpthức ăn khác. Sau giai đoạn sữa non là sữa trưởng thành. Sữa này gồm sữađầu bữa bú và sữa cuối bữa bú. Sữa đầu bữa có màu hơi xanh cung cấpnhiều nước và các chất dinh dưỡng. Sữa cuối bữa có màu hơi trắng vì chứanhiều chất béo và cấp nhiều năng lượng.Sữa mẹ và sức khỏe của conSữa mẹ đáp ứng đủ nhu cầu dinh dưỡng để trẻ tăng trưởng và phát triển,nhất là trong 6 tháng đầu đời do thành phần các chất trong sữa mẹ dễ tiêuhóa hấp thu, phù hợp với bộ máy tiêu hóa, chức năng đào thải của thận giúpcho quá trình tăng trưởng, hoàn thiện não bộ, võng mạc, mạch máu, phòngchống suy dinh dưỡng thiếu vi chất và bảo vệ cơ thể chống ôxy hóa. Sữa mẹcòn có tác dụng phòng chống thừa cân, béo phì. Một số cơ chế về sinh vậthọc đã giải thích là do trẻ bú mẹ có thể tự điều chỉnh năng lượng đưa vào,kiểm soát được số lượng sữa trẻ cần để đáp ứng nhu cầu khi đói, thôngthường khi trẻ bú no thì tự nhả vú ra. Trái lại, ở trẻ bú bình khó kiểm soátlượng sữa theo nhu cầu, trẻ thường kết thúc bữa ăn theo lượng định sẵn. Hơnnữa, nồng độ insulin máu ở trẻ bú mẹ thấp hơn trẻ ăn sữa bò, giảm được sựtích mỡ. Sữa mẹ còn chứa nội tiết leptin, ghrelin, IGF-1 tham gia điều chỉnhăn uống, cân bằng năng lượng bảo vệ cho trẻ không tăng cân quá mức nhấtlà trong hai năm đầu đời và giảm nguy cơ béo phì, đái tháo đường, timmạch, tăng huyết áp... khi trưởng thành.Trẻ bú mẹ thường phát triển tốt nhận thức, trí thông minh hơn trẻ khôngđược bú mẹ do thành phần axít béo không no nhiều nối đôi (DHA, ARA) cónhiều trong sữa mẹ Trẻ được bú mẹ thường phát triển tốt về thể chất và trí tuệ.Nuôi con bằng sữa mẹ vàsức khỏe của mẹNhiều nghiên cứu trên thế giới và trong nước đã chứng minh NCBSM khôngnhững có lợi cho sức khỏe của con mà còn bảo vệ sức khỏe cho cả mẹ trướcmắt và lâu dài. Cho con bú giảm được nguy cơ băng huyết, thiếu máu sausinh; giúp cho mẹ và trẻ hình thành sự gắn bó tình cảm mẹ con, giảm sự loâu, trầm cảm sau sinh; giảm nguy cơ ung thư vú, buồng trứng, loãng xươngkhi về già; bà mẹ cho con bú sẽ nhanh chóng hồi phục cân nặng, vóc dángban đầu; NCBSM là một trong những biện pháp tránh thai an toàn và đạthiệu quả cao nhất là giai đoạn bà mẹ cho con bú hoàn toàn trong 6 thángđầu.Nuôi con bằng sữa mẹ với lợi ích cộng đồngBảo vệ môi trường, không có rác thải; giảm chi phí kinh tế cho gia đình vàngân sách quốc gia. Sữa mẹ không mất tiền mua, không phải nhập khẩuhoặc sản xuất sữa hộp thay thế sữa mẹ; NCBSM bảo vệ sức khỏe bà mẹ vàtrẻ em, giảm được chi phí về dịch vụ y tế.Các biện pháp tăng cường nuôi con bằng sữa mẹMặc dù tính ưu việt của sữa mẹ và lợi ích của NCBSM đã được khẳng địnhnhưng thực tế cho thấy việc thực hiện NCBSM còn hạn chế. Báo cáo của BộY tế, Viện Dinh dưỡng cho thấy, hiện có khoảng 60-70% trẻ được bú sớmtrong vòng 1 giờ đầu sau đẻ và chỉ có 19,6% trẻ được bú mẹ hoàn toàn trong6 tháng đầu. Tỷ lệ trẻ bú chai có xu hướng tăng dần từ 12% (2002) lên 22%(2006). Có nhiều yếu tố ảnh hưởng đến NCBSM, trước hết phải kể đến tậptục của các bà mẹ sau đẻ thường cho trẻ uống nước đường, mật ong... trướcbữa bú đầu tiên hoặc cho trẻ ăn bổ sung sớm từ 2-3 tháng tuổi. Điều đó đãlàm giảm tiết sữa, cản trở trẻ bú mẹ và ảnh hưởng đến việc thực hiệnNCBSM hoàn toàn trong 6 tháng đầu. Bên cạnh đó, kiến thức thực hành củabà mẹ còn nhiều bất cập nhất là khi mẹ đi làm không về cho con bú, khôngvắt sữa để duy trì nguồn sữa mẹ cho nên trẻ thường phải cai sữa sớm, khótiếp tục bú mẹ kéo dài đến 2 năm. Một số yếu tố ảnh hưởng không kém phầnquan trọng là cán bộ y tế thiếu sự hỗ trợ tư vấn, xây dựng niềm tin cho bàmẹ do thiếu thời gian hoặc kỹ năng tư vấn NCBSM còn hạn chế. Việc quảngcáo thái quá của một số công ty sữa có ảnh hưởng đến truyền thống NCBSMvà niềm tin của bà mẹ.. ...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Nuôi con bằng sữa mẹ: Lợi ích kép Nuôi con bằng sữa mẹ: Lợi ích képNuôi con bằng sữa mẹ (NCBSM) là phương pháp nuôi dưỡng tự nhiên cónghĩa là trẻ được bú trực tiếp từ vú mẹ hoặc từ các bà mẹ khác hoặc sữa mẹđược vắt ra.Sữa mẹ được sản xuất từ vú trong những tháng cuối của thai kỳ. Sữa tiết ratrong vài ngày đầu sau đẻ gọi là sữa non. Sữa non có màu hơi vàng sánh đặccó nhiều protein, vitamin A và các thành phần miễn dịch. Sữa non có tácdụng xổ nhẹ đào thải phân su, giảm mức độ vàng da, có yếu tố tăng trưởngbiểu bì giúp cho ruột trưởng thành phòng chống dị ứng, không dung nạpthức ăn khác. Sau giai đoạn sữa non là sữa trưởng thành. Sữa này gồm sữađầu bữa bú và sữa cuối bữa bú. Sữa đầu bữa có màu hơi xanh cung cấpnhiều nước và các chất dinh dưỡng. Sữa cuối bữa có màu hơi trắng vì chứanhiều chất béo và cấp nhiều năng lượng.Sữa mẹ và sức khỏe của conSữa mẹ đáp ứng đủ nhu cầu dinh dưỡng để trẻ tăng trưởng và phát triển,nhất là trong 6 tháng đầu đời do thành phần các chất trong sữa mẹ dễ tiêuhóa hấp thu, phù hợp với bộ máy tiêu hóa, chức năng đào thải của thận giúpcho quá trình tăng trưởng, hoàn thiện não bộ, võng mạc, mạch máu, phòngchống suy dinh dưỡng thiếu vi chất và bảo vệ cơ thể chống ôxy hóa. Sữa mẹcòn có tác dụng phòng chống thừa cân, béo phì. Một số cơ chế về sinh vậthọc đã giải thích là do trẻ bú mẹ có thể tự điều chỉnh năng lượng đưa vào,kiểm soát được số lượng sữa trẻ cần để đáp ứng nhu cầu khi đói, thôngthường khi trẻ bú no thì tự nhả vú ra. Trái lại, ở trẻ bú bình khó kiểm soátlượng sữa theo nhu cầu, trẻ thường kết thúc bữa ăn theo lượng định sẵn. Hơnnữa, nồng độ insulin máu ở trẻ bú mẹ thấp hơn trẻ ăn sữa bò, giảm được sựtích mỡ. Sữa mẹ còn chứa nội tiết leptin, ghrelin, IGF-1 tham gia điều chỉnhăn uống, cân bằng năng lượng bảo vệ cho trẻ không tăng cân quá mức nhấtlà trong hai năm đầu đời và giảm nguy cơ béo phì, đái tháo đường, timmạch, tăng huyết áp... khi trưởng thành.Trẻ bú mẹ thường phát triển tốt nhận thức, trí thông minh hơn trẻ khôngđược bú mẹ do thành phần axít béo không no nhiều nối đôi (DHA, ARA) cónhiều trong sữa mẹ Trẻ được bú mẹ thường phát triển tốt về thể chất và trí tuệ.Nuôi con bằng sữa mẹ vàsức khỏe của mẹNhiều nghiên cứu trên thế giới và trong nước đã chứng minh NCBSM khôngnhững có lợi cho sức khỏe của con mà còn bảo vệ sức khỏe cho cả mẹ trướcmắt và lâu dài. Cho con bú giảm được nguy cơ băng huyết, thiếu máu sausinh; giúp cho mẹ và trẻ hình thành sự gắn bó tình cảm mẹ con, giảm sự loâu, trầm cảm sau sinh; giảm nguy cơ ung thư vú, buồng trứng, loãng xươngkhi về già; bà mẹ cho con bú sẽ nhanh chóng hồi phục cân nặng, vóc dángban đầu; NCBSM là một trong những biện pháp tránh thai an toàn và đạthiệu quả cao nhất là giai đoạn bà mẹ cho con bú hoàn toàn trong 6 thángđầu.Nuôi con bằng sữa mẹ với lợi ích cộng đồngBảo vệ môi trường, không có rác thải; giảm chi phí kinh tế cho gia đình vàngân sách quốc gia. Sữa mẹ không mất tiền mua, không phải nhập khẩuhoặc sản xuất sữa hộp thay thế sữa mẹ; NCBSM bảo vệ sức khỏe bà mẹ vàtrẻ em, giảm được chi phí về dịch vụ y tế.Các biện pháp tăng cường nuôi con bằng sữa mẹMặc dù tính ưu việt của sữa mẹ và lợi ích của NCBSM đã được khẳng địnhnhưng thực tế cho thấy việc thực hiện NCBSM còn hạn chế. Báo cáo của BộY tế, Viện Dinh dưỡng cho thấy, hiện có khoảng 60-70% trẻ được bú sớmtrong vòng 1 giờ đầu sau đẻ và chỉ có 19,6% trẻ được bú mẹ hoàn toàn trong6 tháng đầu. Tỷ lệ trẻ bú chai có xu hướng tăng dần từ 12% (2002) lên 22%(2006). Có nhiều yếu tố ảnh hưởng đến NCBSM, trước hết phải kể đến tậptục của các bà mẹ sau đẻ thường cho trẻ uống nước đường, mật ong... trướcbữa bú đầu tiên hoặc cho trẻ ăn bổ sung sớm từ 2-3 tháng tuổi. Điều đó đãlàm giảm tiết sữa, cản trở trẻ bú mẹ và ảnh hưởng đến việc thực hiệnNCBSM hoàn toàn trong 6 tháng đầu. Bên cạnh đó, kiến thức thực hành củabà mẹ còn nhiều bất cập nhất là khi mẹ đi làm không về cho con bú, khôngvắt sữa để duy trì nguồn sữa mẹ cho nên trẻ thường phải cai sữa sớm, khótiếp tục bú mẹ kéo dài đến 2 năm. Một số yếu tố ảnh hưởng không kém phầnquan trọng là cán bộ y tế thiếu sự hỗ trợ tư vấn, xây dựng niềm tin cho bàmẹ do thiếu thời gian hoặc kỹ năng tư vấn NCBSM còn hạn chế. Việc quảngcáo thái quá của một số công ty sữa có ảnh hưởng đến truyền thống NCBSMvà niềm tin của bà mẹ.. ...
Tìm kiếm theo từ khóa liên quan:
y học phổ thông kiến thức sức khoẻ y tế sức khoẻ cách chăm sóc sức khoẻ nghiên cứu y họcGợi ý tài liệu liên quan:
-
Tổng quan hệ thống về lao thanh quản
6 trang 312 0 0 -
5 trang 305 0 0
-
8 trang 259 1 0
-
Tổng quan hệ thống hiệu quả kiểm soát sâu răng của Silver Diamine Fluoride
6 trang 249 0 0 -
Vai trò tiên lượng của C-reactive protein trong nhồi máu não
7 trang 233 0 0 -
Phương pháp lọc màng bụng cho những người bệnh suy thận
6 trang 231 0 0 -
Khảo sát hài lòng người bệnh nội trú tại Bệnh viện Nhi Đồng 1
9 trang 221 0 0 -
8 trang 200 0 0
-
13 trang 200 0 0
-
5 trang 199 0 0