Danh mục

Nuôi kết hợp tôm hùm với bào ngư và xẹm xanh

Số trang: 3      Loại file: pdf      Dung lượng: 122.25 KB      Lượt xem: 11      Lượt tải: 0    
Thư viện của tui

Phí lưu trữ: miễn phí Tải xuống file đầy đủ (3 trang) 0
Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:

Thông tin tài liệu:

Nghề nuôi tôm hùm phát triển nhanh và tập trung ở một số khu vực hẹp nên chất thải của hoạt động nuôi tích luỹ ngày càng nhiều gây tác động xấu đến môi trường. Để duy trì và phát triển nghề nuôi thuỷ sản theo hướng bền vững thì không còn con đường nào khác là phải hạn chế tối đa tác động xấu đến môi trường.
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Nuôi kết hợp tôm hùm với bào ngư và xẹm xanh Nuôi kết hợp tôm hùm với bào ngư và xẹm xanh Nguồn: vietlinh.com.vn Nghề nuôi tôm hùm phát triển nhanh và tập trung ở một số khu vực hẹp nênchất thải của hoạt động nuôi tích luỹ ngày càng nhiều gây tác động xấu đến môitrường. Để duy trì và phát triển nghề nuôi thuỷ sản theo hướng bền vững thì khôngcòn con đường nào khác là phải hạn chế tối đa tác động xấu đến môi trường. Ý tưởng nuôi kết hợp được nhiều nhà khoa học đề cập đến như nuôi khépkín gồm cá, vẹm, rong biển. Chất thải của cá làm gia tăng nguồn dinh dưỡng trongthuỷ vực tạo điều kiện cho tảo biển phát triển. Tảo làm thức ăn cho vẹm, phân thảicủa vẹm lại bổ sung dinh dưỡng cho rong biển. Vẹm được chế biến thành thức ăncho cá, sau đó thức ăn dư thừa từ các lồng nuôi cá lại thúc đẩy sự phát triển củavẹm, rong biển và tảo, tạo nên vòng chuyển hoá dinh dưỡng và năng lượng khépkín trong thuỷ vực. Viện Nghiên cứu NTTS III thực hiện đề tài nhà nước “Nghiêncứu công nghệ và xây dựng quy tình nuôi kết hợp đa đối tượng hải sản trên biểntheo hướng bền vững”. Đề tài thuộc chương trình KC 06 thuộc Bộ Khoa học vàCông nghệ. Địa điểm được triển khai tại Xuân Tự, huyện Vạn Ninh, Khánh Hoà. Hai lồng nuôi tôm hùm 25m2/lồng, mật độ thả 100con/lồng, kích thước tômban đầu trên 100 gam/con. Một lồng nuôi đơn, một lồng ghép thêm các đối tượngvẹm xanh, rong sụn và bào ngư. Tỷ lệ ghép giữa tôm hùm, vẹm xanh, rong sụn là2:25:30 (theo trọng lượng). Vẹm xanh được nuôi bằng phương pháp treo dây xungquanh lồng, kích thước giống 2-3cm/con. Mỗi dây vẹm bố trí 4 cụm (0,5 kg vẹmgiống/cụm). Rong sụn được treo bằng dây trong và xung quanh lồng và cách mặtnước 50cm. Rong giống thả cỡ 1,5kg/1mdây. Cách 20cm treo một cụm. Bào ngư được thả nuôi bằng lồng nhựa xung quanh lồng nuôi tôm hùm.Lồng nuôi bào ngư có kích thước 30x40x25cm. Mật độ thả ương: 200 con/lồng.Sau 1 tháng nuôi chuyển sang các rổ có mắt lưới lớn hơn để nuôi thương phẩm.Mật độ: 20-30 con/lồng. Viện Nghiên cứu NTTS III đã tiến hành nuôi bào ngư ởcác mật độ khác nhau 10, 20, 36, 75 và 88 con/lồng. Mỗi mật độ bố trí nuôi bàongư theo các nhóm kích thước khác nhau. Thức ăn cho bào ngư là rong câu chỉvàng, rong sụn. Theo dõi các yếu tố môi trường như pH, nhiệt độ, hàm lượng oxy hoà tan,độ mặn, đo 1 lần/tuần. Các yếu tố như nitrate, phosphate, ammonium-nitrogen,tổng N, tổng P được xác định 1 lần/tháng. Theo dõi tốc độ sinh trưởng: Định kỳ 15 ngày đo trọng lượng và chiều dàicác đối tượng nuôi 1 lần. Thức ăn cho tôm hùm là các loại cá tạp, thân mềm, tôm nhỏ, cua…Thườngxuyên vớt bỏ thức ăn thừa, kiểm tra đáy lồng. Hằng ngày lặn kiểm tra thức ănthừa, sức khoẻ tôm, chất đáy, địch hại như cua, ghẹ, cá nóc…quanh lồng. Lượngthức ăn và thức ăn dư thừa được cân đo hằng ngày để xác định hệ số tiêu tốn thứcăn. Kết thức thí nghiệm, Viện nghiên cứu NTTS III đã tổng kết và đánh giáhiệu quả kinh tế của các mô hình nuôi như sau: Hàm lượng ni tơ (N), phốt pho (P) tổng số trong nền đáy lồng nuôi ghépthấp hơn nuôi đơn. Tốc độ sinh trưởng trung bình về trọng lượng của tôm hùm ở lồng nuôi đơnlà 0,48%/ngày và 0,53%/ngày ở lồng nuôi ghép, sinh trưởng của bào ngư là1,47%/ngày, vẹm xanh là 0,57%/ngày và của rong sụn là 3,97%/ngày. Không có sự khác nhau về sinh trưởng khi nuôi bào ngư ở các mật độ 10,20, 36 và 75 con/lồng. Tuy nhiên, ở mật độ 88 con/lồng thì tốc độ sinh trưởng cósự sai khác ý nghĩa thống kê, đó là tốc độ sinh trưởng của bào ngư giảm. Tỷ lệsống của bào ngư giảm khi tăng mật độ nuôi. Hiệu quả kinh tế của mô hình nuôi ghép cao hơn nuôi đơn, lợi nhuận thuđược tăng 42,44% trong khi chi phí đầu tư chỉ tăng thêm 16,42%, tổng chi phí sảnxuất tăng 39,37%.

Tài liệu được xem nhiều: