Nuôi một số loài cá kinh tế lấy giống từ tự nhiên ở đầm phá ven biển
Số trang: 6
Loại file: pdf
Dung lượng: 152.33 KB
Lượt xem: 9
Lượt tải: 0
Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:
Thông tin tài liệu:
Bài báo trình bày tổng quan tình hình nghiên cứu nuôi các loài cá có nguồn gốc giống từ tự nhiên. Ðó là những loài cá có giá trị kinh tế và có khả năng phát triển thành đối tượng nuôi hiệu quả ở các đầm phá ven biển của nước ta như. Cá đối, cá dìa, cá tráp và cá hồng chấm.
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Nuôi một số loài cá kinh tế lấy giống từ tự nhiên ở đầm phá ven biển Nuôi một số loài cá kinh tế lấy giống từ tự nhiên ở đầm phá ven biển Nguồn: vietlinh.com.vn Bài báo trình bày tổng quan tình hình nghiên cứu nuôi các loài cá có nguồn gốc giống từ tự nhiên. Ðó là những loài cá có giá trị kinh tế và có khả năng phát triển thành đối tượng nuôi hiệu quả ở các đầm phá ven biển của nước ta như. Cá đối, cá dìa, cá tráp và cá hồng chấm. Tổng quan Nuôi trồng thủy sản (NTTS) dựa vào giống có nguồn gốc tự nhiên có mối quan hệ khá mật thiết với nghề khai thác (được gọi là CBA Capture Based Aquaculture). Cá giống được thu từ tự nhiên đem về nuôi trong các ao, lồng và được chăm sóc để phát triển đến kích cỡ thương phẩm. Hiện nay, sản lượng nuôi các đối tượng lấy giống từ tự nhiên chiếm khoảng 20% tổng sản lượng của nghề NTTS (FAO, 2004). Các loài cá đang được quan tâm phát triển nuôi là cá măng, cá mú, cá ngừ, cá chình Năm 2000, sản lượng cá chình đạt 288 nghìn tấn, cá mú 15 nghìn tấn, cá ngừ vây xanh 10 nghìn tấn, và giá trị đã vượt quá 1,7 tỷ USD. Ða số các loài cá được nuôi từ kích thước cá giống, nhưng một số loài thì nuôi khi kích thước của cá khá lớn (như cá ngừ). Trình độ nuôi cũng khác nhau ở các nước, thường là cá được nuôi thâm canh (nuôi cá ngừ ở Nhật, Ôxtrâylia nuôi cá mú ở Ðài Loan) hay quảng canh (cá măng, cá mú nuôi ao ở Trung Quốc, Inđônexia). CBA được xem là một hoạt động đem lại nhiều hiệu quả nên FAO (2004) dự đoán trong tương lai gần nghề này tiếp tục phát triển với sự bổ sung thêm các loài cá mới. Các nghiên cứu trong lĩnh vực này còn rất ít, chủ yếu ở một vài đối tượng như cá mú, cá măng, cá ngừ Còn khá nhiều vấn đề cần nghiên cứu, đó là việc vận chuyển con giống (hiện nay tỷ lệ chết rất cao), các kỹ thuật nuôi hiệu quả, bổ sung phát triển thêm loài nuôi mới .v.v... Cá đố i Ðối tượng đáng chú ý nhất trong họ cá đối là cá đối mục Mugil cephalus. Loài này phân bố rộng, lớn nhanh và kích thước lúc trưởng thành khá lớn (Pillay, 1990). Cá đối là một trong những loài cá kinh tế được phát triển nuôi ở phía nam Trung Quốc, riêng tỉnh Quảng Ðông diện tích nuôi cá đối đã hơn 6.500 ha (Yanyan .W., Laihao .L., 2005). Cá đối thường được nuôi ghép với cá măng, cá chẽm, tôm... Là đối tượng có giá trị kinh tế cao và được thử nghiệm nuôi từ rất sớm, nhưng nuôi thâm canh loài này vẫn chưa được phát triển rộng rãi, mặc dù từ 1982, Jhigran đã thử nghiệm thành công kỹ thuật nuôi 2 loài cá đối Mugil tade và M. parsia đạt sản lượng 2.200 kg/ha (dẫn lại từ Pillay, 1990). Cá đối sinh trưởng khá, sau một năm đạt khoảng 300 g, sau 2 năm đạt 1,2 kg. Thức ăn cho cá khi nuôi là thức ăn chế biến với các thành phần cám gạo, bột đậu nành, bột đậu phộng kết hợp với bón phân phốt-phát 60 kg/ha vào ao. Nhu cầu prôtêin trong thức ăn của cá đối không cao khi so sánh với nhu cầu prôtêin cho cá tráp (chỉ bằng 40%). Cá đối là loài rộng muối, chúng có thể sống và sinh trưởng tốt trong môi trường nước lợ, và nước mặn. Cardona (2000) cho rằng, ở vùng cận nhiệt đới, cá đối giống thường tập trung quanh năm trong môi trường nước ngọt hoặc hơi lợ. Cá sống trong môi trường nước ngọt sinh trưởng kém hơn ở nước lợ và nước mặn. Từ giai đoạn ấu trùng đến cá giống, cá đối ăn động vật phù du, đến khi trưởng thành chuyển sang ăn thực vật phù du, mùn bã lơ lửng và lab-lab (thực vật đáy). Trong điều kiện nuôi, cá đối cái thường lớn nhanh hơn cá đực và trứng của chúng là đặc sản được dùng để chế biến thức ăn cao cấp nên cũng có một số nghiên cứu chuyển đổi giới tính của cá bằng hoócmôn sinh dục (Kuo et al, 1973). Nghề nuôi cá đối ở nhiều nơi đã phát triển, khi mà nguồn giống tự nhiên không còn đủ để đáp ứng cho nhu cầu thì người ta nghĩ đến việc sinh sản nhân tạo cá. Một số kết quả bước đầu khá khả quan, tỷ lệ sống của ấu trùng đạt đến 30% (so với cá mú E. coicoides là 5%) (Tucker .W.John, Kennedy .B.S., 2004). Cá dìa Cá dìa cũng là đối tượng được nhiều nước quan tâm phát triển thành đối tượng nuôi. Theo Pillay (1990), các loài cá dìa thường được nuôi ở Malaixia, Xingapo, đảo Guam và Palau, ả Rập Xê-út, Ixraen và Tanzania là Siganus canaliculatus (= oraum), S. vermiculatus, S. rivulatus, S. luridus. Mặc dù là loài ăn thực vật nhưng trong điều kiện nuôi nhốt, cá dìa có thể ăn nhiều, loại thức ăn khác nhau có nguồn gốc từ thực vật và động vật, đặt biệt là chúng cũng sinh trưởng tốt khi ăn thức ăn công nghiệp. Cá dìa thường được nuôi ở ao ven biển hay nuôi trong các đăng lồng, được ương trước khi chuyển sang nuôi thương phẩm (May.,1974). ở Philippin, cá dìa được nuôi đơn hay nuôi ghép trong các ao ven biển, loài nuôi phổ biến là S. vermiculatus, cá đạt cỡ thương phẩm 150 g/con sau 5-7 tháng nuôi. Các kết quả nghiên cứu nuôi loài S. rivulatus bằng lồng cho thấy cá đạt cỡ 185 g/con sau 10 tháng nuôi. Rất ít thông tin về mật độ nuôi được công bố mà đa số các nghiên cứu tập trung vào việc sử dụng thức ăn. Lichatowich et al (1984) thử ng ...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Nuôi một số loài cá kinh tế lấy giống từ tự nhiên ở đầm phá ven biển Nuôi một số loài cá kinh tế lấy giống từ tự nhiên ở đầm phá ven biển Nguồn: vietlinh.com.vn Bài báo trình bày tổng quan tình hình nghiên cứu nuôi các loài cá có nguồn gốc giống từ tự nhiên. Ðó là những loài cá có giá trị kinh tế và có khả năng phát triển thành đối tượng nuôi hiệu quả ở các đầm phá ven biển của nước ta như. Cá đối, cá dìa, cá tráp và cá hồng chấm. Tổng quan Nuôi trồng thủy sản (NTTS) dựa vào giống có nguồn gốc tự nhiên có mối quan hệ khá mật thiết với nghề khai thác (được gọi là CBA Capture Based Aquaculture). Cá giống được thu từ tự nhiên đem về nuôi trong các ao, lồng và được chăm sóc để phát triển đến kích cỡ thương phẩm. Hiện nay, sản lượng nuôi các đối tượng lấy giống từ tự nhiên chiếm khoảng 20% tổng sản lượng của nghề NTTS (FAO, 2004). Các loài cá đang được quan tâm phát triển nuôi là cá măng, cá mú, cá ngừ, cá chình Năm 2000, sản lượng cá chình đạt 288 nghìn tấn, cá mú 15 nghìn tấn, cá ngừ vây xanh 10 nghìn tấn, và giá trị đã vượt quá 1,7 tỷ USD. Ða số các loài cá được nuôi từ kích thước cá giống, nhưng một số loài thì nuôi khi kích thước của cá khá lớn (như cá ngừ). Trình độ nuôi cũng khác nhau ở các nước, thường là cá được nuôi thâm canh (nuôi cá ngừ ở Nhật, Ôxtrâylia nuôi cá mú ở Ðài Loan) hay quảng canh (cá măng, cá mú nuôi ao ở Trung Quốc, Inđônexia). CBA được xem là một hoạt động đem lại nhiều hiệu quả nên FAO (2004) dự đoán trong tương lai gần nghề này tiếp tục phát triển với sự bổ sung thêm các loài cá mới. Các nghiên cứu trong lĩnh vực này còn rất ít, chủ yếu ở một vài đối tượng như cá mú, cá măng, cá ngừ Còn khá nhiều vấn đề cần nghiên cứu, đó là việc vận chuyển con giống (hiện nay tỷ lệ chết rất cao), các kỹ thuật nuôi hiệu quả, bổ sung phát triển thêm loài nuôi mới .v.v... Cá đố i Ðối tượng đáng chú ý nhất trong họ cá đối là cá đối mục Mugil cephalus. Loài này phân bố rộng, lớn nhanh và kích thước lúc trưởng thành khá lớn (Pillay, 1990). Cá đối là một trong những loài cá kinh tế được phát triển nuôi ở phía nam Trung Quốc, riêng tỉnh Quảng Ðông diện tích nuôi cá đối đã hơn 6.500 ha (Yanyan .W., Laihao .L., 2005). Cá đối thường được nuôi ghép với cá măng, cá chẽm, tôm... Là đối tượng có giá trị kinh tế cao và được thử nghiệm nuôi từ rất sớm, nhưng nuôi thâm canh loài này vẫn chưa được phát triển rộng rãi, mặc dù từ 1982, Jhigran đã thử nghiệm thành công kỹ thuật nuôi 2 loài cá đối Mugil tade và M. parsia đạt sản lượng 2.200 kg/ha (dẫn lại từ Pillay, 1990). Cá đối sinh trưởng khá, sau một năm đạt khoảng 300 g, sau 2 năm đạt 1,2 kg. Thức ăn cho cá khi nuôi là thức ăn chế biến với các thành phần cám gạo, bột đậu nành, bột đậu phộng kết hợp với bón phân phốt-phát 60 kg/ha vào ao. Nhu cầu prôtêin trong thức ăn của cá đối không cao khi so sánh với nhu cầu prôtêin cho cá tráp (chỉ bằng 40%). Cá đối là loài rộng muối, chúng có thể sống và sinh trưởng tốt trong môi trường nước lợ, và nước mặn. Cardona (2000) cho rằng, ở vùng cận nhiệt đới, cá đối giống thường tập trung quanh năm trong môi trường nước ngọt hoặc hơi lợ. Cá sống trong môi trường nước ngọt sinh trưởng kém hơn ở nước lợ và nước mặn. Từ giai đoạn ấu trùng đến cá giống, cá đối ăn động vật phù du, đến khi trưởng thành chuyển sang ăn thực vật phù du, mùn bã lơ lửng và lab-lab (thực vật đáy). Trong điều kiện nuôi, cá đối cái thường lớn nhanh hơn cá đực và trứng của chúng là đặc sản được dùng để chế biến thức ăn cao cấp nên cũng có một số nghiên cứu chuyển đổi giới tính của cá bằng hoócmôn sinh dục (Kuo et al, 1973). Nghề nuôi cá đối ở nhiều nơi đã phát triển, khi mà nguồn giống tự nhiên không còn đủ để đáp ứng cho nhu cầu thì người ta nghĩ đến việc sinh sản nhân tạo cá. Một số kết quả bước đầu khá khả quan, tỷ lệ sống của ấu trùng đạt đến 30% (so với cá mú E. coicoides là 5%) (Tucker .W.John, Kennedy .B.S., 2004). Cá dìa Cá dìa cũng là đối tượng được nhiều nước quan tâm phát triển thành đối tượng nuôi. Theo Pillay (1990), các loài cá dìa thường được nuôi ở Malaixia, Xingapo, đảo Guam và Palau, ả Rập Xê-út, Ixraen và Tanzania là Siganus canaliculatus (= oraum), S. vermiculatus, S. rivulatus, S. luridus. Mặc dù là loài ăn thực vật nhưng trong điều kiện nuôi nhốt, cá dìa có thể ăn nhiều, loại thức ăn khác nhau có nguồn gốc từ thực vật và động vật, đặt biệt là chúng cũng sinh trưởng tốt khi ăn thức ăn công nghiệp. Cá dìa thường được nuôi ở ao ven biển hay nuôi trong các đăng lồng, được ương trước khi chuyển sang nuôi thương phẩm (May.,1974). ở Philippin, cá dìa được nuôi đơn hay nuôi ghép trong các ao ven biển, loài nuôi phổ biến là S. vermiculatus, cá đạt cỡ thương phẩm 150 g/con sau 5-7 tháng nuôi. Các kết quả nghiên cứu nuôi loài S. rivulatus bằng lồng cho thấy cá đạt cỡ 185 g/con sau 10 tháng nuôi. Rất ít thông tin về mật độ nuôi được công bố mà đa số các nghiên cứu tập trung vào việc sử dụng thức ăn. Lichatowich et al (1984) thử ng ...
Tìm kiếm theo từ khóa liên quan:
Nông nghiệp Lâm nghiệp Ngư nghiệp Thủy sản Chế phẩm sinh học Bệnh ở vật nuôi Kỹ thuật nuôi trồng Kỹ thuật đánh bắt cá Nuôi cá giống từ đầm phá ven biểnGợi ý tài liệu liên quan:
-
PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU ƯỚC TÍNH TRỮ LƯỢNG CARBON CỦA RỪNG
10 trang 245 0 0 -
30 trang 229 0 0
-
Thông tư số 08/2019/TT-BNNPTNT
7 trang 228 0 0 -
Nuôi cá dĩa trong hồ thủy sinh
3 trang 207 0 0 -
Phương pháp thu hái quả đặc sản Nam bộ
3 trang 143 0 0 -
GIÁO TRÌNH KỸ THUẬT NUÔI NHUYỄN THỂ - CHƯƠNG VII SINH VẬT ĐỊCH HẠI VÀ BIỆN PHÁP PHÒNG TRỪ
5 trang 102 0 0 -
91 trang 100 0 0
-
Mô hình nuôi tôm sinh thái ở đồng bằng sông Cửu Long
7 trang 98 0 0 -
114 trang 94 0 0
-
Hướng dẫn kỹ thuật trồng lát hoa
20 trang 94 0 0