Năm xưa, cách đây hơn nửa thế kỷ, trong những dòng phê bình dành cho Vũ Đình Liên. Hoài Thanh đã gọi bài thơ Ông đồ là một kiệt tác. Ông cho rằng hai nguồn thi cảm chính của Vũ Đình Liên là: "Lòng thương người và tình hoaì cổ. Người thương những cảnh thân tàn ma dại và người nhớ những cảnh cũ người xưa. Có lần hai nguồn thư cảm ấy đã gặp nhau và đã để lại cho chúng ta một bài thơ kiệt tác: "Ông đồ" (Thi nhân Việt Nam, NXB Hoa Tiên). Ý kiến...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Ông đồ : cảm thức về thời gian và nỗi niềm dâu bể Ông đồ : cảm thức về thời gian và nỗi niềm dâu bể Năm xưa, cách đây hơn nửa thế kỷ, trong những dòng phê bình dành cho VũĐình Liên. Hoài Thanh đã gọi bài thơ Ông đồ là một kiệt tác. Ông cho rằng hai nguồnthi cảm chính của Vũ Đình Liên là: Lòng thương người và tình hoaì cổ. Ngườithương những cảnh thân tàn ma dại và người nhớ những cảnh cũ người xưa. Có lầnhai nguồn thư cảm ấy đã gặp nhau và đã để lại cho chúng ta một bài thơ kiệt tác: Ôngđồ (Thi nhân Việt Nam, NXB Hoa Tiên). Ý kiến của Hoài Thanh đã như một khuyên son điểm vào đời thơ Vũ ĐìnhLiên. Và thời gian ngày càng chứng tỏ nhà phê bình của chúng ta rất tinh tường nhạycảm. Nhưng bởi vì sao hôm nay chúng ta laị vẫn loay hoay trở lại cái công việc màHoài Thanh đã làm, khẽ khàng lật một di vật xưa mà soi ngắm dò tìm? Tại sao Ôngđồ của Vũ Đình Liên mà không là một bài thơ nào khác? Tôi tự hỏi và cảm giác thấyđây không hề là sự lựa chọn ngẫu nhiên. Đập cổ kính ra tìm lấy bóng... Phải chăng,anh, chị, tôi, chúng ta đang đi tìm bóng dáng mình ở mảnh kính Ông đồ? Hình dung bài thơ như một bộ phim tài liệu quay chậm. Bốn khổ thơ đầu lànhững cận cảnh: không gian không thay đổi mà chỉ có những biến thái nhỏ, thời gianxoay chuyển từng năm: khổ cuối, một nửa là cận cảnh: Năm nay đào lại nở Không thấy ông đồ xưa Nhân vật chính đã biến mất, để cuối cùng phim dừng lại rất lâu ở một nền ---glộng đầy mây trắng: Những người muôn năm cũ Hồn ở đâu bây giờ Vũ Đình Liên đã tiết kiệm lời thơ đến mức tối đa để sự vật tự lên tiếng - và đólà một đặc trưng của ngôn ngữ điện ảnh: vì thế những ấn tượng đập vào mắt người đọcrất nhanh, cộng với chiều sâu của hệ vấn đề, bài thơ đã để lại một ngân vang sâu thẳm.Thể ngũ ngôn không mới trong lịch sử thi ca Việt Nam, mà ngược lại. Trong giai đoạnvăn học 1932-1945, nhiều nhà thơ đã dùng thể này và thật lạ, hầu hết đó là những bàithơ hay. Vũ Đình Liên không chuyên về ngũ ngôn, nhưng với Ông đồ ông đã chọnmột thể loại tối ưu. Những câu thơ tả chân ngắn, khách quan vô tình, như những giọtmưa rơi đều đặn, gieo vào lòng ta một nỗi buồn âm thầm, thấm thía. Vũ Đình Liên, khi tâm sự với Hoài Thanh về bài thơ Ông đồ: Ông chính làcái di tích tiều tụy đáng thương của môt thời tàn, ông đã cắt nghĩa tác phẩm của mìnhnghiêng về cảm quan xã hội. Ở khía cạnh này, Ông đồ cũng đã đánh động trong chúng ta nhiều tâm trạng:nỗi buồn hoài cổ, sự tiếc nuối quá khứ vàng son, lòng thương xót về số phận hẩm hiucủa những nhà nho... và cũng đã gợi ra cho chúng ta nhiều vấn đề: bi kịch của sự gặpgỡ Đông Tây, sự suy vong và cáo chung của giai đoạn lịch sử, sự khép lại vĩnh viễncủa một thời đại, sự biến mất của một lớp người... Tự khắc hình ảnh của Tản Đà lại hiện về với những dòng thơ rao trên báo đầyxót xa: Nguyễn Khắc Hiếu - Tản Đà! Nay mai sắp ở Hà Nay mai sắp ở Hà Đàn ông và đàn bà Nhiều ít tùy ở khách Hậu bạc kể chi mà. Lại liên tưởng đến dòng tiểu luận đầy cảm thán của Đinh Gia Trinh trên ThanhNghị ngày nào: Cách đây ít năm,ở nhiều xóm thôn quê có những kẻ gánh bồ đi muasách Nho cũ. Tiếng rao của họ như tiếng than của một nền học thuật đang hấp hối: vàkẻ tư lự dõi theo bóng họ trên đường đất có cái cảm giác thấy họ đem một chút tinhhoa của một đất nước đến một mộ địa nào xa xôi (Thanh Nghị 8/1981) Ông đồ là hình ảnh của những nhà Nho đã đầu hàng thời thế, chấp nhận nhậpcuộc vào nền kinh tế thị trường, bán chữ thánh hiền. Nhưng tiếc thay, sư nhập cuộcnày đã quá muộn màng. Chữ Hán, phương tiện cao quý chuyên chở đạo thiêng liêngmột thời, đã chịu nhận làm một thứ hàng hoá không hơn không kém, thế mà vẫnkhông thể tồn tại lâu dài. Trước cơn lốc của thời đại, họ như những hạt bụi nhỏ bị thổigiạt vào quá khứ. Điểm chính của cảm quan xã hội trong bài thơ Ông đồ là cảm xúc về sự bểdâu: Thương hải biến vi tan điền. Chính ở đây Vũ Đình Liên đã gặp gỡ Tú Xươngtrong bài thơ Sông lấp: Sông kia rày đã nên đồng Chỗ làm nhà cửa, chỗ trồng ngô khoai Đêm nghe tiếng ếch bên tai Giật mình còn tưởng tiếng ai gọi đò Và cũng từ đây Vũ Đình Liên đã có điểm tựa để bước sang cảm thức về thờigian: một cảm quan triết lý. Với Ông đồ, Vũ Đình Liên không xuất phát từ ý niệm hay biểu tượng. Ôngkhởi đi từ cảnh đời có thực. Ông đã tải những gì mà giác quan ông ghi nhận được,hoàn toàn chân xác, không hề tô vẽ. Chúng ta thấy mỗi chữ mỗi câu, mỗi đoạn đều cụthể và giản dị như gạch ngói, nhưng lạ thay, khi kết thành nguyên khối lại tạo lên sứcvang, lại thành biểu tượng của vũ trụ và sự biến dịch đời người. Trong khi giòng thời gian vũ trụ cứ luân chuyển một cách vô tình: Mỗi năm hoa đào nở ... Năm nay đào lại nở Hoa ...