Danh mục

PHÁC ĐỒ THUỐC PHỐI HỢPCÓ GỐC ARTEMISININE (ACTs)

Số trang: 21      Loại file: pdf      Dung lượng: 236.60 KB      Lượt xem: 7      Lượt tải: 0    
Hoai.2512

Hỗ trợ phí lưu trữ khi tải xuống: 13,000 VND Tải xuống file đầy đủ (21 trang) 0
Xem trước 3 trang đầu tiên của tài liệu này:

Thông tin tài liệu:

Giới thiệu: Sốt rét vẫn là vấn đề y tế công cộng ở vùng nhiệt đới và cận nhiệt đới, đặc biệt châu Phi và châu Á. Sự xuất hiện và lan rộng KSTSR kháng thuốc đang diễn biến nghiêm trọng đe dọa đến thành quả phòng chống sốt rét. Các dẫn suất của artemisinin ra đời đã tác động rất lớn về mặt điều trị và chống kháng. Tuy nhiên, kinh nghiệm cho thấy tình trạng kháng thuốc xảy ra cũng là lúc “tuổi thọ” của TSR giảm đi. Nếu không có biện pháp và hoạt động giám...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
PHÁC ĐỒ THUỐC PHỐI HỢPCÓ GỐC ARTEMISININE (ACTs) PHÁC ĐỒ THUỐC PHỐI HỢP CÓ GỐC ARTEMISININE (ACTs) TÓM TẮT Giới thiệu: Sốt rét vẫn là vấn đề y tế công cộng ở vùng nhiệt đới và cận nhiệtđới, đặc biệt châu Phi và châu Á. Sự xuất hiện và lan rộng KSTSR kháng thuốc đangdiễn biến nghiêm trọng đe dọa đến thành quả phòng chống sốt rét. Các dẫn suất củaartemisinin ra đời đã tác động rất lớn về mặt điều trị và chống kháng. Tuy nhiên, kinhnghiệm cho thấy tình trạng kháng thuốc xảy ra cũng là lúc “tuổi thọ” của TSR giảmđi. Nếu không có biện pháp và hoạt động giám sát thường xuyên về tình hình khángthuốc thì việc đầu tư vào nghiên cứu phát minh ra thuốc mới sẽ rất lãng phí. Do vậy,thử nghiệm lâm sàng một số thuốc sốt rét mới là rất cần thiết và quan trọng, để đưa rachiến lược kịp thời, đồng thời nhằm bổ sung dữ liệu và góp phần thay đổi chính sáchthuốc quốc gia trong từng giai đoạn. Mục tiêu: Đánh giá hiệu quả và tính an toàn của phác đồ CV-8, Artekine(Dihydroartemisinine + piperaquine), Artequick (Artemisinine + piperaquine) trongđiều trị sốt rét do P. falciparum chưa biến chứng. Phương pháp: Thử nghiệm lâm sàng ngẫu nhiên tự chứng liên quan đến đánhgiá đáp ứng của P. falciparum với các phác đồ khác nhau. Kết quả: Với phác đồ CV8, Artequick dạng viên, Artekine cho kết quả đápứng lâm sàng và ký sinh trùng đầy đủ (ACPR) là 100%; Hiệu quả phác đồ Artequick(dạng cốm) cho ACPR từ 98,10%, LPF là 1,9%, không có ca nào ETF hoặc LCF.Không có một tác dụng phụ nghiêm trọng nào xảy ra trong quá trình theo dõi. Kết luận: (1) Hiệu quả phác đồ CV-8, Artequick (dạng viên hoặc cốm),Artekine rất cao, đây là những thuốc lý tưởng cho điều trị sốt rét (2) tác dụng phụ củathuốc chỉ thoáng qua không cần can thiệp y tế hoặc buộc ngưng điều trị; Kết quảnghiên cứu sẽ bổ sung dữ liệu, giúp cho Bộ y tế đánh giá và có hướng điều chỉnhChính sách thuốc sốt rét quốc gia phù hợp. ABSTRACT Background: Malaria still a public health problem in the tropics andsubtrropics areas, particularly in Asia and Africa. The emergence and spread of drug-resistant malaria parasites is the major threat to effective malaria control. Theartemisinin derivatives have had an important clinical impact both on the treatment ofresistant falciparum malaria. However, experience has shown that resistanceeventually curtails the life span of antimalarial drugs. If measures are not applied tocontain resistance, the investment put into the development of new drugs will besquandered. Therefor, A few promising new antimalarials are being tested clinically,drugs tolerance that can be used in short courses, and for strategies to delay the onsetof drug resistance and to properly change national antimalarial drug policy. Objectives: To assess the efficacy and safety of CV-8, Artequick in tabletsand granules (Artemisinine plus piperaquine), Artekin (Dihydroartemisinine pluspiperaquine) regimes for the treatment of uncomplicated P. falciparum malaria. Methods: We conducted a randomized clinical trials involved patients withuncomplicated P. falciparum malaria. The patients were treated with either CV-8 orArtequick or Artekine regimes, and followed for 28 days to assess the antimalarialefficacy of the drug by monitoring of clinical and parasitological parameters. Results: in analyses conducted according to the study protocol, the cumulativeefficacy of CV-8, Artequick (tablet) and Artekin were (ACPR) of 100%; only inArtequick (granule) was (ACPR) of 98.10%, LPFof 1.90%, none of them were ETFor LCF; no serious side-effects related to the studied drugs. Conclusions: (1). The efficacy of CV-8, Artekin and Artequick (tablets andgranules) are extremely high, ideal for malaria treatment; (2) Side effects of theseregimes were reported but did not necessitate premature cessation of therapy or healthcare interventions. From this study outcomes will be used to assist the Ministry ofHealth of Vietnam in assessing the current national treatment guidelines. ĐẶT VẤN ĐỀ Sốt rét vẫn còn là vấn đề y tế công cộng, rất quan trọng và đe dọa tính mạngcộng đồng tại các vùng nhiệt đới và cận nhiệt đới trên thế giới. Ước tính hiện tại cókhoảng 350-500 triệu ca mắc mới và hơn một triệu ca tử vong do sốt rét trên phạm vitoàn cầu hằng năm, phần lớn tập trung ở châu Phi và châu Á. Quản lý ca bệnh hiệuquả và kịp thời vẫn là một trong những điểm chính làm giảm tỷ lệ mắc và tỷ lệ tửvong, thành công của chiến lược này dựa trên khả năng sự thay đổi chính sách thuốcquốc gia của Bộ Y tế theo từng giai đoạn nhằm cung cấp thuốc sốt rét (TSR) có hiệuquả cao. Sự lan rộng P. falciparum kháng thuốc hầu hết các quốc gia, trong đó có ViệtNam đang là thử thách nguy hiểm cho điều trị. Không riêng kháng chloroquine màcác TSR khác cũng tăng kháng, ngoại trừ “hoặc chưa” có tính kháng đối với các dẫnsuất của artemisinine. Vì tình trạng kháng thuốc lan nhanh có thể là quy mô toàn cầu,liệu pháp phối hợp thuốc artemisinin (ACTs_ artemisinine-based combinationtherapy) là những thuốc phối hợp hiệu lực cao có sẵn để lựa chọn điều trị tại ViệtNam và một số quốc gia trên thế giới, nhưng tỷ lệ thất bại (mặc dù rất ít) của ACTs sửdụng ở các quốc gia tiểu vùng sông Mê Kông đã lên tiếng cảnh báo cho liên vùng vàtoàn cầu. Song, đặc biệt hầu hết phác đồ khuyến cáo điều trị của WHO hiện tại đềutrên nền dẫn suất artemisinine, nếu quả thật P. falciparum kháng với dẫn suấtartemisinine như thế thì thật đáng sợ vì có thể kháng lan rộng ra cả các châu lục kháctrong khi loại TSR khác vẫn đang trong giai đoạn thử nghiệm. Miền Trung-Tây Nguyên với tỷ lệ bệnh nhân và con số tử vong cũng như tìnhtrạng kháng TSR cao nhất cả nước thì việc nghiên cứu áp dụng một số phác đồ thuốcACTs để kịp thời x ...

Tài liệu được xem nhiều:

Tài liệu liên quan: