Phan Châu Trinh và hồn Tinh Vệ
Số trang: 9
Loại file: pdf
Dung lượng: 204.05 KB
Lượt xem: 20
Lượt tải: 0
Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:
Thông tin tài liệu:
“Tinh Vệ” là loài chim sống ở bờ biển, trông na ná như quạ. Tục truyền con gái vua Viêm Đế chết đuối hóa thành chim, nên chim thường ngậm đá ở núi Tây những mong lấp cạn biển Đông. Tinh Vệ dùng theo nghĩa bóng là “việc gì khiến ta xả thân làm hết sức mình, bất luận thành bại”.
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Phan Châu Trinh và "hồn Tinh Vệ" Phan Châu Trinh và Hồn Tinh Vệ “Tinh Vệ” là loài chim sống ở bờ biển, trông na ná như quạ. Tục truyền congái vua Viêm Đế chết đuối hóa thành chim, nên chim thường ngậm đá ở núi Tâynhững mong lấp cạn biển Đông. Tinh Vệ dùng theo nghĩa bóng là “việc gì khiến taxả thân làm hết sức mình, bất luận thành bại”. 1. “Tinh Vệ” là loài chim sống ở bờ biển, trông na ná như quạ. Tục truyền congái vua Viêm Đế chết đuối hóa thành chim, nên chim thường ngậm đá ở núi Tây nhữngmong lấp cạn biển Đông. Tinh Vệ dùng theo nghĩa bóng là “việc gì khiến ta xả thânlàm hết sức mình, bất luận thành bại”. 1.1. “Ngô đô phú” (Phú làm tại kinh đô nhà Ngô) trong Tả Tư có câu : “Tinh Vệhàm thạch nhi ngộ kiểu” (Tinh Vệ ngậm đá gặp lại chủ cũ). Uông Tinh Vệ (1885-1944), chính trị gia người Quảng Đông, sau khi Tôn Văn mất, lãnh đạo cánh tả củaQuốc Dân Đảng, một thời đối lập với Tưởng Giới Thạch. Năm 1937, khi chiến tranhTrung-Nhật khuếch đại, ông khởi xướng phong trào hòa bình với Nhật Bản, lập chínhphủ Nam Kinh. Uông cũng lấy “Tinh Vệ” làm tên chữ -- tên thật của ông ta là UôngTriệu Minh. Ở nước ta, trong Kiều có câu : “Tình thâm bể thẳm lạ điều / Nàohồn Tinh Vệ biết theo chốn nào” hoặc truyện Sãi Vãi cũng có : “Đá Tinh Vệ muốn lấpsao cho cạn bể”. 1.2. Vào đầu thế kỷ 20, từ ngữ “Tinh Vệ” được dùng nhiều hơn bao giờ cả. Mộttrong những người đầu tiên sử dụng điển tích đó là Phan Châu Trinh (1872-1926). Phanlà nhà cách mạng đã để lại nhiều văn thơ bằng chữ Hán và chữ quốc ngữ -- có bài đứngvào hàng kiệt tác. Sau đây, chúng ta thử xem các bài thơ của Phan có nhắc đến chim “Tinh Vệ” vàthử đoán “Tinh Vệ” hàm ý nghĩa gì. Cần nói thêm là khác với thơ văn Phan làm bằngchữ Hán, các bài thơ có liên quan đến chim Tinh Vệ trích sau đây này đều được viếtbằng chữ quốc ngữ. ***2. Làm ở Côn Đảo, 1908 ? Anh biết cho chăng hỡi Dã Hàng ?Thình lình sóng dậy cửa Nha Trang.Lời nguyền trời đất còn ghi tạc,Giọt máu non sông đã chảy tràn.Tinh Vệ nghìn năm hồn khó dứt ?Đỗ Quyên muôn kiếp oán chưa tan. 1 2.1. Đỗ Quyên : chim quốc (cuốc), còn gọi là Đỗ Vũ, hay Tử Quy. Tương truyềnvua Thục Đế là Đỗ Vũ ham mê nữ sắc, tư thông với vợ của bầy tôi. Thục Đế vì ham sắcbị buộc phải nhường ngôi, bỏ nước ra đi. Nhà vua về sau hối hận về hành động xằngbậy của mình, buồn rầu và sanh bệnh rồi mất, hóa thành chim Đỗ Quyên. Chim về mùaHè kêu suốt đêm ai oán, đến hửng sáng là giãy chết. Tiếng chim Đỗ Quyên thườngdùng theo nghĩa “lòng nhớ quê hương”. 2.2. Bài thơ trên, thiếu hai câu cuối, Phan chắc hẳn đã làm sau khi nghe tin TrầnQuý Cáp lên đoạn đầu đài ở chợ Nha Trang sau vụ “Trung Kỳ dân biến” năm 1908.Trước cuộc dân biến, phong trào Duy Tân đã rất mạnh, đặc biệt là Quảng Nam, rồi đếnHà Nội, Nghệ An và Hà Tĩnh. Trần Quý Cáp hiệu là Thai Xuyên hay Thích Phu, tự là Dã Hàng, đỗ tiến sĩ nămGiáp Thìn (1904). Trần là bạn chí thân của Phan và chí hướng hai người cũng giốngnhau. Cả hai nổi tiếng về tài hùng biện. Năm 1905, bộ ba Phan, Trần và Huỳnh Thúc Kháng Nam du, họ giả dạng láibuôn để lên “thám hiểm” tàu Nga đang cập bến ở Cam Ranh. 2 Vào đến Bình Định, gặpkỳ khảo hạch hàng năm, Phan làm bài thơ Chí thành thông thánh (Chí thành thông đạothánh hiền), Trần và Huỳnh Thúc Kháng làm bài phú Lương ngọc danh sơn (Cầu ngọctốt ở ngọn núi lừng danh), dùng lời lẽ để kích động lòng yêu nước của sĩ phu toàn quốc.Năm 1908, khi phong trào Duy Tân đang dấy lên sôi nổi với khẩu hiệu “chấn dân khí,khai dân trí, hậu dân sinh” thì vụ dân biến xảy ra. Cựu đảng Cần Vương nổi tiếng là Tiểu La Nguyễn Thành sau khi làm việc vớiTrần trong mấy năm, từng nói với Phan : “Nếu được một đôi người như Thai Xuyên cóviệc gì chả làm xong !” 3 Trần hy sinh là điều mất mát rất lớn đối với Phan. 2.3. Tuy cùng mang hoài bão cứu nước, lập trường của Phan và Phan Bội Châu(Phan Bội Châu) rất khác nhau, thậm chí về sau trở thành đối lập. Phan chủ trương bấtbạo động và hoạt động hợp pháp, khởi xướng thuyết tự trị, kêu gọi canh tân để tự cườngqua chủ trương “ỷ Pháp cầu tiến bộ”, rồi từng bước giành lại độc lập quốc gia. Lậptrường của Phan được một số thân sĩ chịu ảnh hưởng tân học biểu đồng tình. Ngược lại,Phan Bội Châu chủ trương bài Pháp kịch liệt, hô hào lật đổ chính quyền thuộc địa bằngphương tiện bạo động và bí mật. Tưởng nên nói thêm là trong khoảng thời gian cuối đờisống trong tình trạng bị giam lỏng ở Huế từ cuối năm 1925 cho đến khi từ trần vào năm1940, Phan Bội Châu có thái độ chính trị ôn hòa so với thời kỳ hoạt động ở hải ngoại. Dưới mắt Phan, Phan Bội Châu là nhà yêu nước bị ảnh hưởng nặng nề của cáihọc khoa cử. Phan xem các trước tác của Phan Bội Châu là biến thể của văn chương bátcổ, “không có mảy may một chút giá trị, nhưng vì trình độ và tính cách thích hợp vớiquốc dân, nên dân mới bị lừa theo” 4. Cá tính con người Phan Bội Châu biểu hiện“những quán ...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Phan Châu Trinh và "hồn Tinh Vệ" Phan Châu Trinh và Hồn Tinh Vệ “Tinh Vệ” là loài chim sống ở bờ biển, trông na ná như quạ. Tục truyền congái vua Viêm Đế chết đuối hóa thành chim, nên chim thường ngậm đá ở núi Tâynhững mong lấp cạn biển Đông. Tinh Vệ dùng theo nghĩa bóng là “việc gì khiến taxả thân làm hết sức mình, bất luận thành bại”. 1. “Tinh Vệ” là loài chim sống ở bờ biển, trông na ná như quạ. Tục truyền congái vua Viêm Đế chết đuối hóa thành chim, nên chim thường ngậm đá ở núi Tây nhữngmong lấp cạn biển Đông. Tinh Vệ dùng theo nghĩa bóng là “việc gì khiến ta xả thânlàm hết sức mình, bất luận thành bại”. 1.1. “Ngô đô phú” (Phú làm tại kinh đô nhà Ngô) trong Tả Tư có câu : “Tinh Vệhàm thạch nhi ngộ kiểu” (Tinh Vệ ngậm đá gặp lại chủ cũ). Uông Tinh Vệ (1885-1944), chính trị gia người Quảng Đông, sau khi Tôn Văn mất, lãnh đạo cánh tả củaQuốc Dân Đảng, một thời đối lập với Tưởng Giới Thạch. Năm 1937, khi chiến tranhTrung-Nhật khuếch đại, ông khởi xướng phong trào hòa bình với Nhật Bản, lập chínhphủ Nam Kinh. Uông cũng lấy “Tinh Vệ” làm tên chữ -- tên thật của ông ta là UôngTriệu Minh. Ở nước ta, trong Kiều có câu : “Tình thâm bể thẳm lạ điều / Nàohồn Tinh Vệ biết theo chốn nào” hoặc truyện Sãi Vãi cũng có : “Đá Tinh Vệ muốn lấpsao cho cạn bể”. 1.2. Vào đầu thế kỷ 20, từ ngữ “Tinh Vệ” được dùng nhiều hơn bao giờ cả. Mộttrong những người đầu tiên sử dụng điển tích đó là Phan Châu Trinh (1872-1926). Phanlà nhà cách mạng đã để lại nhiều văn thơ bằng chữ Hán và chữ quốc ngữ -- có bài đứngvào hàng kiệt tác. Sau đây, chúng ta thử xem các bài thơ của Phan có nhắc đến chim “Tinh Vệ” vàthử đoán “Tinh Vệ” hàm ý nghĩa gì. Cần nói thêm là khác với thơ văn Phan làm bằngchữ Hán, các bài thơ có liên quan đến chim Tinh Vệ trích sau đây này đều được viếtbằng chữ quốc ngữ. ***2. Làm ở Côn Đảo, 1908 ? Anh biết cho chăng hỡi Dã Hàng ?Thình lình sóng dậy cửa Nha Trang.Lời nguyền trời đất còn ghi tạc,Giọt máu non sông đã chảy tràn.Tinh Vệ nghìn năm hồn khó dứt ?Đỗ Quyên muôn kiếp oán chưa tan. 1 2.1. Đỗ Quyên : chim quốc (cuốc), còn gọi là Đỗ Vũ, hay Tử Quy. Tương truyềnvua Thục Đế là Đỗ Vũ ham mê nữ sắc, tư thông với vợ của bầy tôi. Thục Đế vì ham sắcbị buộc phải nhường ngôi, bỏ nước ra đi. Nhà vua về sau hối hận về hành động xằngbậy của mình, buồn rầu và sanh bệnh rồi mất, hóa thành chim Đỗ Quyên. Chim về mùaHè kêu suốt đêm ai oán, đến hửng sáng là giãy chết. Tiếng chim Đỗ Quyên thườngdùng theo nghĩa “lòng nhớ quê hương”. 2.2. Bài thơ trên, thiếu hai câu cuối, Phan chắc hẳn đã làm sau khi nghe tin TrầnQuý Cáp lên đoạn đầu đài ở chợ Nha Trang sau vụ “Trung Kỳ dân biến” năm 1908.Trước cuộc dân biến, phong trào Duy Tân đã rất mạnh, đặc biệt là Quảng Nam, rồi đếnHà Nội, Nghệ An và Hà Tĩnh. Trần Quý Cáp hiệu là Thai Xuyên hay Thích Phu, tự là Dã Hàng, đỗ tiến sĩ nămGiáp Thìn (1904). Trần là bạn chí thân của Phan và chí hướng hai người cũng giốngnhau. Cả hai nổi tiếng về tài hùng biện. Năm 1905, bộ ba Phan, Trần và Huỳnh Thúc Kháng Nam du, họ giả dạng láibuôn để lên “thám hiểm” tàu Nga đang cập bến ở Cam Ranh. 2 Vào đến Bình Định, gặpkỳ khảo hạch hàng năm, Phan làm bài thơ Chí thành thông thánh (Chí thành thông đạothánh hiền), Trần và Huỳnh Thúc Kháng làm bài phú Lương ngọc danh sơn (Cầu ngọctốt ở ngọn núi lừng danh), dùng lời lẽ để kích động lòng yêu nước của sĩ phu toàn quốc.Năm 1908, khi phong trào Duy Tân đang dấy lên sôi nổi với khẩu hiệu “chấn dân khí,khai dân trí, hậu dân sinh” thì vụ dân biến xảy ra. Cựu đảng Cần Vương nổi tiếng là Tiểu La Nguyễn Thành sau khi làm việc vớiTrần trong mấy năm, từng nói với Phan : “Nếu được một đôi người như Thai Xuyên cóviệc gì chả làm xong !” 3 Trần hy sinh là điều mất mát rất lớn đối với Phan. 2.3. Tuy cùng mang hoài bão cứu nước, lập trường của Phan và Phan Bội Châu(Phan Bội Châu) rất khác nhau, thậm chí về sau trở thành đối lập. Phan chủ trương bấtbạo động và hoạt động hợp pháp, khởi xướng thuyết tự trị, kêu gọi canh tân để tự cườngqua chủ trương “ỷ Pháp cầu tiến bộ”, rồi từng bước giành lại độc lập quốc gia. Lậptrường của Phan được một số thân sĩ chịu ảnh hưởng tân học biểu đồng tình. Ngược lại,Phan Bội Châu chủ trương bài Pháp kịch liệt, hô hào lật đổ chính quyền thuộc địa bằngphương tiện bạo động và bí mật. Tưởng nên nói thêm là trong khoảng thời gian cuối đờisống trong tình trạng bị giam lỏng ở Huế từ cuối năm 1925 cho đến khi từ trần vào năm1940, Phan Bội Châu có thái độ chính trị ôn hòa so với thời kỳ hoạt động ở hải ngoại. Dưới mắt Phan, Phan Bội Châu là nhà yêu nước bị ảnh hưởng nặng nề của cáihọc khoa cử. Phan xem các trước tác của Phan Bội Châu là biến thể của văn chương bátcổ, “không có mảy may một chút giá trị, nhưng vì trình độ và tính cách thích hợp vớiquốc dân, nên dân mới bị lừa theo” 4. Cá tính con người Phan Bội Châu biểu hiện“những quán ...
Tìm kiếm theo từ khóa liên quan:
tư tưởng triết học chủ nghĩa maclenin tài liệu triết học phạm trù triết học vai trò của triết họcGợi ý tài liệu liên quan:
-
Bài tiểu luận: Phật giáo và sự ảnh hưởng ảnh hưởng của nó đến đời sống tinh thần của người Việt Nam
18 trang 275 1 0 -
Tư tưởng triết học và văn hóa Ấn Độ: Phần 1
208 trang 255 0 0 -
Ebook Lịch sử triết học Phương Đông (Tập 1): Phần 1 - Nguyễn Đăng Thục
204 trang 228 0 0 -
Điểm tương đồng về tư tưởng giữa C. Mác và học thuyết Phật giáo
7 trang 218 0 0 -
73 trang 200 0 0
-
Nghiên cứu triết học Ấn Độ cổ đại: Phần 1
34 trang 197 0 0 -
31 trang 153 0 0
-
Chủ đề Một vài suy nghĩ về tư tưởng triết học Việt Nam trong nền văn hoá dân tộc'
18 trang 104 0 0 -
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Triết học: Tư tưởng Triết học của Tôn Trung Sơn và ý nghĩa của nó
32 trang 95 0 0 -
HỆ THỐNG CÂU HỎI – ĐÁP ÁN GỢI MỞ & HƯỚNG DẪN VIẾT TIỂU LUẬN
487 trang 91 0 0