Danh mục

Phấn đấu đưa nền kinh tế thị trường ở nước ta lên trình độ kinh tế thị trường hiện đại và phát triển bền vững

Số trang: 5      Loại file: pdf      Dung lượng: 6.86 MB      Lượt xem: 10      Lượt tải: 0    
tailieu_vip

Phí lưu trữ: miễn phí Tải xuống file đầy đủ (5 trang) 0
Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:

Thông tin tài liệu:

Tình hình đất nước đã biến đổi khác so với khi bắt đầu đổi mới, đòi hỏi phải tiếp tục đổi mới tư duy để có thể giành thêm những thắng lợi lớn hơn nữa. Muốn xác định đúng phương hướng đổi mới tư duy kinh tế cần phân tích rõ những đặc điểm của tình hình kinh tế - xã hội ở nước ta hiện nay.
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Phấn đấu đưa nền kinh tế thị trường ở nước ta lên trình độ kinh tế thị trường hiện đại và phát triển bền vững PHẤN ĐẤU ĐƢA NỀN KINH TẾ THỊ TRƢỜNG Ở NƢỚC TA LÊN TRÌNH ĐỘ KINH TẾ THỊ TRƢỜNG HIỆN ĐẠI VÀ PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG GS.TS. Đỗ Thế Tùng Công cuộc đổi mới ở nước ta trên ba mươi năm qua đã giành được những thắng lợi to lớn, có ý nghĩa lịch sử; đã chuyển được nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung, bao cấp sang nền kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa mà vẫn giữ vững ổn định chính trị, xã hội, đảm bảo tăng trưởng kinh tế và từng bước cải thiện đời sống của nhân dân. Nhưng tình hình đất nước đã biến đổi khác so với khi bắt đầu đổi mới, đòi hỏi phải tiếp tục đổi mới tư duy để có thể giành thêm những thắng lợi lớn hơn nữa. Muốn xác định đúng phương hướng đổi mới tư duy kinh tế cần phân tích rõ những đặc điểm của tình hình kinh tế - xã hội ở nước ta hiện nay. 1. Đặc điểm tình hình kinh tế - xã hội ở nƣớc ta hiện này 1.1- Nước ta đã có nền kinh tế thị trường, nhưng còn một số mặt yếu kém cần được khắc phục sớm để tiến lên trình độ thị trường hiện đại. Thí dụ: Ở nước ta lao động trực tiếp làm nông nghiệp còn chiếm tới 48% (có số liệu nêu cao hơn) mà phần lớn là nông hộ sản xuất hàng hóa nhỏ, trong khi ở các nước phát triển cao tỷ lệ này chỉ chiếm từ 3% đến 10% tổng lực lượng lao động xã hội; mà hầu hết là công nhân nông nghiệp. Hay là, thị trường hàng hóa thông thường ở nước ta phát triển nhanh và không ngừng mở rộng, nhưng thị trường lao động, thị trường khoa học - công nghệ và thị trường bảo hiểm (kể cả bảo hiểm xã hội và bảo hiểm rủi ro trong sản xuất, kinh doanh) còn chưa hoàn thiện. Hơn nữa khái niệm định hướng xã hội chủ nghĩa vẫn chưa sáng tỏ, chưa đạt được một nhận thức nhất quán về nội hàm và những giải pháp khả thi để đảm bảo định hướng này. 1.2- Công nghiệp hóa hiện đại hóa nền kinh tế quốc dân cũng đạt được nhiều thành tựu quan trọng. Nhưng trong khi chưa hoàn tất cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ nhất thì lại phải ứng phó với cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư, đòi hỏi phải lồng ghép hệ thống công nghệ truyền thống (cơ khí hóa, điện khí hóa, hợp tác hóa….) với hệ thống công nghệ mới (Công nghệ tin học, công nghệ sinh học, công nghệ na nô, công nghệ tự động hóa …), nên gặp nhiều khó khăn. 134 Hai đặc trưng nổi bật của cách mạng công nghiệp lần thức nhất là rút bớt lao động nông nghiệp sang lĩnh vực công nghiệp và dịch vụ và chuyển lao động thủ công, cá thể thành lao động cơ khí, hợp tác vẫn chưa được hoàn thành ở nước ta. Thách thức lớn nhất đối với nước ta khi ứng phó với cách mạng công nghiệp lần thứ tư là thiếu vốn đầu tư mạo hiểm, đầu tư cho RD và việc đào tạo công nhân tri thức (knowledge workers) rất hạn hẹp. 1.3- Xét về mặt hiện vật thì thành tích rắt lớn, nhưng tính hiệu quả và năng suất lao động lại rất thấp, nguy cơ tụt hậu vẫn còn. Theo công bố của tổ chức lao động quốc tế (ILO) năng suất lao động của Việt Nam năm 2013 thuộc nhóm thấp nhất khu vực Châu Á - Thái Bình Dương, thấp hơn Singapo 15 lần, Nhật Bản 11 lần, Hàn Quốc 10 lần và chỉ bằng 1/5 so với Malaysia và 2/5 so với Thái Lan. Đến nay tình hình vẫn chưa được cải thiện bao nhiêu. 1.4- Tình hình tài chính - tiền tệ vẫn chưa vững, nợ công cao. Trong ngân sách nhà nước chỉ thường xuyên chiếm tỷ lệ quá lớn, chi cho đầu tư phát triển rất eo hẹp, áp lực trả nợ ngày càng tăng. 1.5- Thành tựu về thu hút F.D.I rất lớn, nhưng chưa biến được ngoại lực thành nội lực do công nghiệp hỗ trợ yếu kém, hầu như các doanh nghiệp trong nước chưa tham gia được vào chuỗi giá trị sản phẩm công nghệ cao. Tỷ lệ nội địa hóa ở nhiều ngành không đạt, thí dụ: Trên 20 năm phát triển ngành ô tô nhưng đến nay chủ yếu vẫn là lắp ráp, hãng Toyota chỉ nội địa hóa được 7% giá trị so với cam kết là 30% sau mười năm; Suzuki nội địa hóa 3% so với quy định trong giấy phép là 38,2% vào năm 2006. Một nhà nghiên cứu ở nước láng giềng viết một câu rất hay: 'ngoại lực phải biến thành nội lực, nếu không ngoại lực vào rồi lại ra đi, niềm vui phồn vinh ngắn hạn sẽ trở thành nỗi tiêu điều dài hạn'. Không những thế việc quản lý chưa chặt khiến một số không nhỏ doanh nghiệp F.D.I thực hiện cái gọi là chuyển giá để trốn thuế thu nhập doanh nghiệp nhiều năm. Theo số liệu thống kê, hàng năm khu vực có vốn đầu tư nước ngoài xuất siêu, còn khu vực trong nước nhập siêu, chứng tỏ nội lực yếu. 1.6- Giáo dục và đào tạo cùng với khoa học và công nghệ được coi là quốc sách hàng đầu nhưng chưa đáp ứng được nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội. Giáo dục đào tạo vẫn theo kiểu thầy thuyết giảng, trò ghi chép, học thuộc và gắng đạt điểm thi cao, chưa gắn với nhu cầu của thị trường lao động, chưa gắn lý 135 thuyết với thực hành. Nhiều trường không có phòng thực nghiệm hoặc phòng thực nghiệm rất lạc hậu. Một giáo sư của trường đại học Yale ở Mỹ gọi cách giáo dục truyền thống này là 'tạo cho người học chết đuối về thông tin nhưng chết đói về tri thức'. Nghiên cứu khoa học và công nghệ cũng yếu kém, hầu như chưa có quỹ đầu tư mạo hiểm, còn quỹ đầu tư cho RD rất hạn hẹp. Báo Tiền Phong số 90, ngày 30-3-2016 và số 91, ngày 31-3-2016, đưa tin: đề án phòng thí nghiệm trọng điểm được thủ tướng chính phủ phê duyệt năm 2000, tổng vốn đầu tư ban đầu 966, 745 tỷ đồng, bình quân 60,4 tỷ đồng một phòng thí nghiệm, chủ trương lập 16 phòng (sau nâng lên thành 17 phòng) nhưng đến nay hầu hết các thiết bị đã xuống cấp và lạc hậu, đã khấu hao hết, nhưng không có kinh phí để đổi mới. 1.7- Bộ máy nhà nước cồng kềnh nhưng hiệu lực và hiệu quả quản lý chưa cao, nạn tham nhũng, lãng phí, hối lộ còn trầm trọng, kỷ cương và trật tự xã hội chưa nghiêm đã gây nhiều trở ngại cho việc thực thi các chủ trương, chính sách pháp luật. 2. Cố ...

Tài liệu được xem nhiều: