Năm 1859, giặc Pháp tấn công thành Gia Định, NguyếnĐình Chiểu viết bài thơ “Chạy giặc”, hai câu kết nói lênmong ước thiết tha:“Hỏi trang dẹp loạn rày đâu vắng / Nỡ để dân đen mắcnạn này?”
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Phân tích bài văn tế nghĩa sĩ cần giuộcPhân tích bài văn tế nghĩa sĩ cần giuộc của NguyễnĐình ChiểuNăm 1859, giặc Pháp tấn công thành Gia Định, NguyếnĐình Chiểu viết bài thơ “Chạy giặc”, hai câu kết nói lênmong ước thiết tha:“Hỏi trang dẹp loạn rày đâu vắng / Nỡ để dân đen mắcnạn này?”Và mấy năm sau, Nhà thơ viết bài “Văn tế nghĩa sĩ CầnGiuộc” - đình cao nghệ thuật và tư tưởng trong sự nghiệpthơ văn của ông. Có thể coi bài văn tế là tấm lòng trungnghĩa của Nguyễn Đình Chiểu đối với những nghĩa sĩ anhhùng của nhân dân ta trong buổi đầu chống Pháp xâmlược. Nhà thơ mù đất Đồng Nai đã dựng lên một “tượngđài nghệ thuật” mang tính chất bi tráng về người nông dânyêu nước chống ngoại xâm.Sau khi chiếm đóng 3 tỉnh miền Đông, giặc Pháp đánhchiếm 3 tỉnh miền tây Nam Bộ. Năm 1861, vào đêm 14/12,nghĩa quân đã tấn công đồn giặc ở Cần Giuộc, thuộc tỉnhLong An ngày nay.Trận đánh diễn ra vô cùng ác liệt “làmcho mã tà, ma ní hồn kinh”, Gần 30 chiến sĩ nghĩa quânđã anh dũng hi sinh. Nguyễn Đình Chiểu đã viết bài văn tếnày - bài ca về người anh hùng thất thế nhưng vẫn hiênngang.“Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc” là một “tượng đài nghệ thuật”hiếm có. “Bi tráng” là tầm vóc và tính chất của tượng đàinghệ thuật ấy: vừa hoành tráng, hùng tráng vừa thốngthiết, bi ai. Hùng tráng ở nội dung chiến đấu vì nghĩa lớn.Hùng tráng ở phẩm chất anh hùng, ở đức hi sinh quyết tử.Hùng tráng ở chỗ nó dựng lên 1 thời đại sóng gió dữ dội,quyết liệt của đất nước và dân tộc. Hoành tráng về quymô, nó không chỉ khắc hoạ về 1 nghĩa quân, 1 anh hùngmà đông đảo những người “dân ấp dân lân mến nghĩaquân làm quân chiêu mộ” dưới ngọn cờ “bình tây” củaTrương Công Định. Tính chất, quy mô hùng tráng, hoànhtráng ấy lại gắn liền với bi ai đau thương thống thiết. “Cáitượng đài nghệ thuật” về người nông dân đánh Pháp giữathế kỉ XIX đã được dựng lên trong nước mắt, trong tiếngkhóc của nhà thơ, của nhân dân và cả của đất nước.Trong toàn bài văn tế đặc biệt trong phân thích thực và aivãn , ta cảm nhận sâu sắc tính chất bi tráng này.Mở đầu bài văn tế là 1 lời than qua 2 câu tứ tự song hành.Hai tiếng “Hỡi ôi!” vang lên thống thiết, đó là tiếng khóccủa nhà thơ đối với nghĩa sĩ, là tiếng nấc đau thương chothế nước hiểm nghèo:“Súng giặc, đất rền; lòng dân trời tỏ”Tổ quốc lâm nguy. Súng giặc nổ vang rền trời đất và quêhương sứ sở.“Tan chợ vưà nghe tiếng súng Tây…” (“Chạy giặc”). Trongcảnh nước mất nhà tan, chỉ có nhân dân đứng lên gánhvác sứ mệnh lịch sử, đánh giặc cứu nước cứu nhà. Tấmlòng yêu nước, căm thù giặc của nhân dân, của nhữngngười áo vải mới tỏ cùng trời đất và ság ngời chính nghĩa.Có thể nói cặp câu tứ tự này là tư tưởng chủ đạo của bàivăn tế, nó được khắc trên đá hoa cương đặt ở phía trước,chính diện của “tượng đài nghệ thuật” ấy.Hình ảnh trung tâm của “tượng đài nghệ thuật” “Văn tếnghĩa sĩ Cần Giuộc” là những chiến sĩ nghĩa quân. Nguồngốc của họ là nông dân nghèo sống cuộc đời “côi cút” sauluỹ tre làng. Chất phác và hiền lành, cần cù là chịu khótrong làm ăn, quanh quẩn trong xóm làng, làm bạn với contrâu, đường cày, sá bừa, rất xa lạ với “cung ngựa trườngnhung”:“Nhớ linh xưa:Côi cút làm ăn; toan lo nghèo khóChưa quen cung ngựa đâu tới trường nhung; chỉ biếtruộng trâu, ở trong làng bộ”.Họ là lớp người đông đảo, sống gần fũi quanh ta. Quanhnăm chân lấm tay bùn với nghề nông, “chưa hề ngó tới”việc binh và vũ khí đánh giặc:“Việc cuốc, việc cày, việc bừa, việc cấy, tay vốn quen làm;tập khiên, tập súng, tập mác, tập cờ mắt chưa từng ngó”.Thế nhưng khi đất nước quê hương bị giặc Pháp xâmlược, những “dân ấp, dân lân” ấy đã đứng lên “mến nghĩalàm quân chiêu mộ”. Đánh giặc cứu nước cứu nhà, bảovệ “bát cơm manh áo ở đời” là cái nghĩa lớn mà họ “mến”là đeo đuổi. Nguyễn Đình Chiểu đã viết nên những câucách cú hay nhất (giản dị mà chắc nịch) ca ngợi long yêunước, căm thù giặc của người nghĩa sĩ:“Bữa thấy bong bong che trắng lốp, muốn tới an gan;ngày xem ống khói chạy đen sì, muốn ra cắn cổ”.Đối với giặc Pháp và lũ tay sai bán nước, họ chỉ có 1 tháiđộ: “ăn gan” và “cắn cổ”, chỉ có 1 chí hướng: “phen nàyxin ra sức đoạn kình…, chuyến này dốc ra tay bộ hổ”.Hình ảnh người chiến sĩ nghĩa quân ra trận là những nétvẽ, nét khắc hùng tráng nhất, hoành tráng nhất trong“tượng đài nghệ thuật” bài văn tế. Bức tượng đài có 2 nétvẽ tương phản đối lập: đoàn dũng sĩ của quê hương vàgiặc Pháp xâm lược. Giặc cướp được trang bị tối tân, có“tàu thiếc, tàu đồng”, “bắn đạn nhỏ, đạn to”, có bọn línhđánh thuê “mã tà, ma ní” thiện chiến. Trái lại, trang bị củanghĩa quân lại hết sức thô sơ. Quân trang chỉ là “1 manháo vải” . Vũ khí chỉ có “một ngọn tầm vông”, hoặc “mộtlưỡi dao phay”, một súng hoả mai khai hoả “bằng rơm concúi”. Thế mà họ vẫn lập được chiến công: “đốt xong nhàdạy đạo kia” và “chém rớt đầu quan hai nọ”.“Tượng đài nghệ thuật” đã tái hiện lại những giờ phút giaotranh ác liệt của các chiến sĩ nghĩa quân với giặc Pháp:“Chi nhọc quan quản gióng trống kì, trống giục, đạp ràolướt tới, coi giặc cũng như không; nào sợ thằng Tây bắnđạn nhỏ đạn to, xô cửa xông vào, liều mình như chẳng có.Kẻ đâm ngang, người chém ngược, làm cho ma ní, mã tàhồn kinh; bọn hè trước, lũ ó sau, trối kệ tàu thiếc, tàu đồngsúng nổ”.Đây là những câu gối hạc tuyệt bút. Không khí chiến trậncó tiếng trống thúc quân giục giã, “có bọn hè trước, lũ ósau” vang dậy đất trời cùng tiếng súng nổ. Các nghĩa sĩcủa ta coi cái chết như không, tấn công như vũ bão, tunghoành giữa đồn giặc: “đạp rào lướt tới”, “xô cửa xôngvào”, “đâm ngang chém ngược”, “hè trước, ó sau”…Giọng văn hùng tráng, phép đối tài tình, các động từ mạnhđược chọn lọc và đặt đúng chỗ… đã tô đậm tinh thần quảcảm, vô song của các nghĩa sĩ Cần Giuộc. Nguyễn ĐìnhChiểu đã dành cho c ...