Phản ứng có hại của thuốc - những nguy cơ tiềm ẩn
Số trang: 5
Loại file: pdf
Dung lượng: 224.64 KB
Lượt xem: 15
Lượt tải: 0
Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:
Thông tin tài liệu:
Trong đề tài này được thực hiện nhằm tìm hiểu nguyên nhân, mức độ nghiêm trọng, các yếu tố tăng nặng và tỷ lệ tử vong trên nhữngbệnh nhân xảy ra phản ứng có hại của thuốc. Nghiên cứu thực hiện hồi cứu 215 bệnh nhân nhập khoa Bệnh Nhiệt Đới bệnh viện ChợRẫy từ 01/01/2012 đến 31/12/2012 xảy ra phản ứng có hại của thuốc.
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Phản ứng có hại của thuốc - những nguy cơ tiềm ẩnNghiên cứu Y họcY Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014PHẢN ỨNG CÓ HẠI CỦA THUỐC - NHỮNG NGUY CƠ TIỀM ẨNNguyễn Ngọc Sang*, Hoàng Lan Phương*, Trần Quang Bính*TÓM TẮTĐặt vấn đề: Phản ứng có hại của thuốc (Adverse Drug Reactions - ADRs) là một trong những yếu tố quantrọng nhất để đánh giá sự an toàn của một loại thuốc. Trên thực tế nhiều phản ứng có hại nghiêm trọng của thuốcchỉ được phát hiện sau một thời gian dài thuốc được đưa vào sử dụng, mặc dù đã trải qua nhiều thử nghiệm lâmsàng nghiêm ngặt.Mục tiêu: Tìm hiểu nguyên nhân, mức độ nghiêm trọng, các yếu tố tăng nặng và tỷ lệ tử vong trên nhữngbệnh nhân xảy ra phản ứng có hại của thuốc.Đối tượng và phương pháp: Nghiên cứu hồi cứu 215 bệnh nhân nhập khoa Bệnh Nhiệt Đới bệnh viện ChợRẫy từ 01/01/2012 đến 31/12/2012 xảy ra phản ứng có hại của thuốc.Kết quả: Trên 215 bệnh nhân, trong đó do nhóm thuốc kháng viêm 7,9%, kháng sinh 7,4%, Allopurinol7,0%, thuốc điều trị động kinh 2,8%, thuốc kháng lao và nhóm thuốc cản quang cùng là 1,8%, không xác định rõnhóm thuốc 71,3 %. Mức độ nghiêm trọng của phản ứng từ đe dọa tính mạng 10,7% đến phải nhập viện hay kéodài thời gian nằm viện gồm hội chứng Stevens Johnson và Lyell 34,0% và các phản ứng có hại khác là 55,3%. Tửvong 4 ca (1,9%) đều do nhiễm trùng huyết, biến chứng choáng nhiễm trùng xảy ra sau khi bị hội chứng StevensJohnson.Kết luận: Tất cả các loại thuốc sử dụng ngay cả khi đúng chỉ định của thầy thuốc đều có thể gây phản ứng cóhại hay các biến cố bất lợi. Chỉ sử dụng thuốc khi thật cần thiết, có toa thuốc hay nhãn mác thuốc để nhận dạngloại thuốc gây phản ứng. Thận trọng khi chỉ định và phối hợp thuốc sẽ làm giảm nguy cơ xuất hiện các phản ứngcó hại, qua đó làm giảm tỷ lệ tử vong.Từ khóa: Phản ứng có hại của thuốc, các biến cố bất lợi của thuốc, sốc phản vệ, hội chứng Stevens Johnson,hội chứng LyellABSTRACTADVERSE DRUG REACTIONS - THE POTENTIAL RISKSNguyen Ngoc Sang, Hoang Lan Phuong, Tran Quang Binh* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 18 - Supplement of No 2 - 2014: 330-334Background: Adverse drug reactions (ADRs) is one of the most important factors to evaluate the safety of adrug. Many adverse drug reactions are not discovered through limited pre-marketing clinical trials; instead, theyare only seen in long term, post-marketing surveillance of drug usage.Aim of study: To be aware of causes, severity, elevated factors and mortality of patients who occurredADRs.Methods: Retrospective study in 215 patients who occurred ADRs in Tropical Diseases department, ChoRay Hospital from 01/01/2012 to 31/12/2012.Result: 215 patients occurred ADRs, including the antiinflammatory drugs 7.9%, antibiotics 7.4%,Allopurinol 7.0%, anticonvulsants 2.8%, antituberculous drugs and contrast medium drugs the same 1.8%, not* Khoa Bệnh Nhiệt Đới – BV Chợ Rẫy.Tác giả liên lạc: PGS.TS. Trần Quang Bính, ĐT: 0903841479, Email: binhtq.tranquangbinh@gmail.com330Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Chợ Rẫy 2013Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014Nghiên cứu Y họcclearly defined group of drugs 71.3% The severity of the reaction: life-threatening accounted for 10.7%,hospitalization or prolongation of hospitalization such as Stevens Johnson syndrome or Lyell 34.0% and otheradverse reactions 55.3%. Death in 4 cases (1.9%) were due to sepsis occurred after Stevens Johnson syndrome.Conclusion: All drug can cause adverse reactions or adverse events. Only use when absolutely necessarydrugs, or prescription drug labels to identify drugs that cause reactions. Careful when prescribing andcombination therapy will reduce the risk of adverse reactions, thereby reducing mortality.Key words: ADRs: Adverse Drug Reactions, ADEs: Adverse Drug Events, anaphylactic shock, StevensJohnson syndrome, Lyell syndrome.ĐẶT VẤN ĐỀPhản ứng có hại của thuốc được định nghĩalà phản ứng rõ ràng có hại, không mong muốndo kết quả của can thiệp liên quan đến sử dụngsản phẩm thuốc. Phản ứng này dự đoán mốinguy hiểm cho nhà quản lý trong tương lai vàcảnh báo can thiệp hay điều trị đặc hiệu hay thayđổi liều dùng hay rút bỏ sản phẩm(1).Trong thực hành lâm sàng, thầy thuốc khi kêtoa cho bệnh nhân luôn phải chú ý đến cả mặthiệu quả điều trị và phản ứng có hại của thuốc.Nguyên tắc hàng đầu là không gây hại chongười bệnh (first do no harm). Tuy nhiên, phảnứng có hại của thuốc vẫn xảy ra hàng ngày vớisố lượng người bị ảnh hưởng ngày càng giatăng. Điều này, ngoài việc có thể đe dọa tínhứng có hại của thuốc thể hiện trên chẩn đoán raviện: “Hội chứng Stevens Johnson”, “Hội chứngLyell”, “Sốc phản vệ hay Phản ứng phản vệ dodị ứng thuốc”, “Dị ứng thuốc”. Mức độ nghiêmtrọng của phản ứng được phân loại theo quyđịnh của trung tâm Quốc gia DI và ADR khuvực phía Nam: tử vong, đe dọa tính mạng, nhậpviện/kéo dài thời gian nằm viện, dị tật thai nhi,không nghiêm trọng.Các biến số thu thập trong nghiên c ...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Phản ứng có hại của thuốc - những nguy cơ tiềm ẩnNghiên cứu Y họcY Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014PHẢN ỨNG CÓ HẠI CỦA THUỐC - NHỮNG NGUY CƠ TIỀM ẨNNguyễn Ngọc Sang*, Hoàng Lan Phương*, Trần Quang Bính*TÓM TẮTĐặt vấn đề: Phản ứng có hại của thuốc (Adverse Drug Reactions - ADRs) là một trong những yếu tố quantrọng nhất để đánh giá sự an toàn của một loại thuốc. Trên thực tế nhiều phản ứng có hại nghiêm trọng của thuốcchỉ được phát hiện sau một thời gian dài thuốc được đưa vào sử dụng, mặc dù đã trải qua nhiều thử nghiệm lâmsàng nghiêm ngặt.Mục tiêu: Tìm hiểu nguyên nhân, mức độ nghiêm trọng, các yếu tố tăng nặng và tỷ lệ tử vong trên nhữngbệnh nhân xảy ra phản ứng có hại của thuốc.Đối tượng và phương pháp: Nghiên cứu hồi cứu 215 bệnh nhân nhập khoa Bệnh Nhiệt Đới bệnh viện ChợRẫy từ 01/01/2012 đến 31/12/2012 xảy ra phản ứng có hại của thuốc.Kết quả: Trên 215 bệnh nhân, trong đó do nhóm thuốc kháng viêm 7,9%, kháng sinh 7,4%, Allopurinol7,0%, thuốc điều trị động kinh 2,8%, thuốc kháng lao và nhóm thuốc cản quang cùng là 1,8%, không xác định rõnhóm thuốc 71,3 %. Mức độ nghiêm trọng của phản ứng từ đe dọa tính mạng 10,7% đến phải nhập viện hay kéodài thời gian nằm viện gồm hội chứng Stevens Johnson và Lyell 34,0% và các phản ứng có hại khác là 55,3%. Tửvong 4 ca (1,9%) đều do nhiễm trùng huyết, biến chứng choáng nhiễm trùng xảy ra sau khi bị hội chứng StevensJohnson.Kết luận: Tất cả các loại thuốc sử dụng ngay cả khi đúng chỉ định của thầy thuốc đều có thể gây phản ứng cóhại hay các biến cố bất lợi. Chỉ sử dụng thuốc khi thật cần thiết, có toa thuốc hay nhãn mác thuốc để nhận dạngloại thuốc gây phản ứng. Thận trọng khi chỉ định và phối hợp thuốc sẽ làm giảm nguy cơ xuất hiện các phản ứngcó hại, qua đó làm giảm tỷ lệ tử vong.Từ khóa: Phản ứng có hại của thuốc, các biến cố bất lợi của thuốc, sốc phản vệ, hội chứng Stevens Johnson,hội chứng LyellABSTRACTADVERSE DRUG REACTIONS - THE POTENTIAL RISKSNguyen Ngoc Sang, Hoang Lan Phuong, Tran Quang Binh* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 18 - Supplement of No 2 - 2014: 330-334Background: Adverse drug reactions (ADRs) is one of the most important factors to evaluate the safety of adrug. Many adverse drug reactions are not discovered through limited pre-marketing clinical trials; instead, theyare only seen in long term, post-marketing surveillance of drug usage.Aim of study: To be aware of causes, severity, elevated factors and mortality of patients who occurredADRs.Methods: Retrospective study in 215 patients who occurred ADRs in Tropical Diseases department, ChoRay Hospital from 01/01/2012 to 31/12/2012.Result: 215 patients occurred ADRs, including the antiinflammatory drugs 7.9%, antibiotics 7.4%,Allopurinol 7.0%, anticonvulsants 2.8%, antituberculous drugs and contrast medium drugs the same 1.8%, not* Khoa Bệnh Nhiệt Đới – BV Chợ Rẫy.Tác giả liên lạc: PGS.TS. Trần Quang Bính, ĐT: 0903841479, Email: binhtq.tranquangbinh@gmail.com330Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Chợ Rẫy 2013Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014Nghiên cứu Y họcclearly defined group of drugs 71.3% The severity of the reaction: life-threatening accounted for 10.7%,hospitalization or prolongation of hospitalization such as Stevens Johnson syndrome or Lyell 34.0% and otheradverse reactions 55.3%. Death in 4 cases (1.9%) were due to sepsis occurred after Stevens Johnson syndrome.Conclusion: All drug can cause adverse reactions or adverse events. Only use when absolutely necessarydrugs, or prescription drug labels to identify drugs that cause reactions. Careful when prescribing andcombination therapy will reduce the risk of adverse reactions, thereby reducing mortality.Key words: ADRs: Adverse Drug Reactions, ADEs: Adverse Drug Events, anaphylactic shock, StevensJohnson syndrome, Lyell syndrome.ĐẶT VẤN ĐỀPhản ứng có hại của thuốc được định nghĩalà phản ứng rõ ràng có hại, không mong muốndo kết quả của can thiệp liên quan đến sử dụngsản phẩm thuốc. Phản ứng này dự đoán mốinguy hiểm cho nhà quản lý trong tương lai vàcảnh báo can thiệp hay điều trị đặc hiệu hay thayđổi liều dùng hay rút bỏ sản phẩm(1).Trong thực hành lâm sàng, thầy thuốc khi kêtoa cho bệnh nhân luôn phải chú ý đến cả mặthiệu quả điều trị và phản ứng có hại của thuốc.Nguyên tắc hàng đầu là không gây hại chongười bệnh (first do no harm). Tuy nhiên, phảnứng có hại của thuốc vẫn xảy ra hàng ngày vớisố lượng người bị ảnh hưởng ngày càng giatăng. Điều này, ngoài việc có thể đe dọa tínhứng có hại của thuốc thể hiện trên chẩn đoán raviện: “Hội chứng Stevens Johnson”, “Hội chứngLyell”, “Sốc phản vệ hay Phản ứng phản vệ dodị ứng thuốc”, “Dị ứng thuốc”. Mức độ nghiêmtrọng của phản ứng được phân loại theo quyđịnh của trung tâm Quốc gia DI và ADR khuvực phía Nam: tử vong, đe dọa tính mạng, nhậpviện/kéo dài thời gian nằm viện, dị tật thai nhi,không nghiêm trọng.Các biến số thu thập trong nghiên c ...
Tìm kiếm theo từ khóa liên quan:
Tạp chí y học Nghiên cứu y học Sốc phản vệ Hội chứng stevens johnson Hội chứng lyell Nhiễm trùng huyết Biến chứng choáng nhiễm trùngGợi ý tài liệu liên quan:
-
Tổng quan hệ thống về lao thanh quản
6 trang 296 0 0 -
5 trang 287 0 0
-
8 trang 241 1 0
-
Tổng quan hệ thống hiệu quả kiểm soát sâu răng của Silver Diamine Fluoride
6 trang 236 0 0 -
Vai trò tiên lượng của C-reactive protein trong nhồi máu não
7 trang 217 0 0 -
Khảo sát hài lòng người bệnh nội trú tại Bệnh viện Nhi Đồng 1
9 trang 201 0 0 -
13 trang 184 0 0
-
8 trang 184 0 0
-
5 trang 183 0 0
-
9 trang 174 0 0