Pháp luật về khai thác thương mại đối với sáng chế của doanh nghiệp Việt Nam trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế
Số trang: 8
Loại file: pdf
Dung lượng: 255.60 KB
Lượt xem: 8
Lượt tải: 0
Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:
Thông tin tài liệu:
Thông qua bài viết này, trên cơ sở phân tích quy định của pháp luật Việt Nam về khai thác thương mại đối với sáng chế, thực tiễn áp dụng và đề xuất một số kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động khai thác thương mại đối với sáng chế của doanh nghiệp Việt Nam trong bối cảnh hội nhập.
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Pháp luật về khai thác thương mại đối với sáng chế của doanh nghiệp Việt Nam trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế Hội thảo Khoa học “Các vấn đề đương đại trong lĩnh vực Kinh tế, Luật: Từ lí thuyết đến thực tiễn” PHÁP LUẬT VỀ KHAI THÁC THƯƠNG MẠI ĐỐI VỚI SÁNG CHẾ CỦA DOANH NGHIỆP VIỆT NAM TRONG BỐI CẢNH HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ TRADE MINING LAW FOR INVESTMENT OF VIETNAM ENTERPRISES IN THE INTEGRATION CONTEXT INTERNATIONAL ECONOMY NCS. Lê Đức Hiền1 Tóm tắt – Trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay, việc nâng cao năng lực cạnh tranh có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với các doanh nghiệp nước ta, đặc biệt là cạnh tranh trong việc đổi mới công nghệ hiện đại thông qua các tài sản trí tuệ, trong đó có sáng chế. Chính vì vậy, việc cải tiến, đổi mới cũng như khai thác thương mại đối với sáng chế cần phải được hoạt động hiệu quả hơn. Thông qua bài viết này, trên cơ sở phân tích quy định của pháp luật Việt Nam về khai thác thương mại đối với sáng chế, thực tiễn áp dụng và đề xuất một số kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động khai thác thương mại đối với sáng chế của doanh nghiệp Việt Nam trong bối cảnh hội nhập. Từ khóa: doanh nghiệp Việt Nam; khai thác thương mại đối với sáng chế, sáng chế. 1. KHÁI NIỆM KHAI THÁC THƯƠNG MẠI ĐỐI VỚI SÁNG CHẾ Sáng chế là giải pháp kĩ thuật dưới dạng sản phẩm hoặc quy trình nhằm giải quyết một vấn đề xác định bằng việc ứng dụng các quy luật tự nhiên [1]. Sáng chế là sản phẩm hay quy trình do con người tạo ra chứ không phải là những gì đã tồn tại trong tự nhiên được con người phát hiện ra. Sử dụng sáng chế là việc thực hiện các hành vi sau đây: sản xuất sản phẩm được bảo hộ; áp dụng quy trình được bảo hộ; khai thác công dụng của sản phẩm được bảo hộ hoặc sản phẩm được sản xuất theo quy trình được bảo hộ; lưu thông, quảng cáo, chào hàng, tàng trữ để lưu thông sản phẩm và nhập khẩu sản phẩm [1]. Luật Thương mại 2005 quy định: ‘Hoạt động thương mại là hoạt động sinh lợi, bao gồm mua bán, cung ứng dịch vụ, đầu tư, xúc tiến thương mại và các hoạt động nhằm mục đích sinh lợi khác’ [2]. 1 Trường Đại học Quy Nhơn; Email: duchiendhqn@gmail.com 365 Hội thảo Khoa học “Các vấn đề đương đại trong lĩnh vực Kinh tế, Luật: Từ lí thuyết đến thực tiễn” Để khai thác thương mại đối với sáng chế, trước tiên, sáng chế phải được bảo hộ. Nếu sáng chế được bảo hộ dưới hình thức cấp bằng độc quyền sáng chế thì nó phải đáp ứng các điều kiện: có tính mới, có trình độ sáng tạo, có khả năng áp dụng công nghiệp. Thương mại hóa kết quả nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ là hoạt động khai thác, hoàn thiện, ứng dụng, chuyển giao, hoạt động khác có liên quan đến kết quả nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ nhằm mục đích thu lợi nhuận [3]. Như vậy, pháp luật sở hữu trí tuệ chưa có quy định cụ thể khái niệm khai thác thương mại đối với sáng chế. Tuy nhiên, căn cứ các quy định của pháp luật liên quan đã nêu ở trên, có thể hiểukhai thác thương mại đối với sáng chế là hoạt động khai thác các khía cạnh thương mại của sáng chế sau khi được bảo hộ thông qua các hình thức như chủ sở hữu tự mình khai thác sáng chế, chuyển nhượng quyền sở hữu sáng chế, chuyển giao quyền sử dụng sáng chế, chủ sở hữu thế chấp, góp vốn để kinh doanh, thành lập doanh nghiệp bằng quyền sở hữu công nghiệp đối với sáng chế nhằm mục đích thu lợi nhuận. 2. THỰC TRẠNG KHAI THÁC THƯƠNG MẠI ĐỐI VỚI SÁNG CHẾ CỦA DOANH NGHIỆP VIỆT NAM TRONG BỐI CẢNH HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ Hội nhập kinh tế quốc tế là quá trình chủ động gắn kết nền kinh tế và thị trường của từng nước với kinh tế khu vực và thế giới thông qua các nỗ lực tự do hóa và mở cửa trên các cấp độ đơn phương, song phương và đa phương. Hội nhập thực chất là sự chủ động tham gia vào quá trình toàn cầu hóa và khu vực hóa [4]. Trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế đòi hỏi các doanh nghiệp Việt Nam không ngừng nỗ lực đổi mới, nâng cao sức cạnh tranh thông qua việc cải tiến chất lượng sản phẩm. Tức là, cần phải đầu tư nhiều công nghệ kĩ thuật hiện đại qua việc nghiên cứu và sáng tạo để có nhiều sáng chế nhằm tạo ra những sản phẩm chất lượng, đủ sức cạnh tranh trên thị trường Việt Nam cũng như quốc tế và đáp ứng yêu cầu hội nhập. Tuy nhiên, nếu chỉ có sáng chế mà không thực hiện việc đăng kí bảo hộ thì tình trạng xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ từ việc “lấy cắp” công nghệ là rất lớn. Vì vậy, để khuyến khích cũng như thúc đẩy hoạt động sáng tạo và giúp các doanh nghiệp trong việc đăng kí bảo hộ sáng chế thì cơ chế bảo hộ sáng chế cần được hoạt động hiệu quả hơn. Bên cạnh đó, các doanh nghiệp cần đẩy mạnh việc khai thác thương mại đối với sáng chế nhằm mang lại lợi nhuận. Ngày 22 tháng 8 năm 2019, Thủ tướng Chính phủ đã kí Quyết định số 1068/QĐ- TTg phê duyệt Chiến lược sở hữu trí tuệ đến năm 2030, khẳng định chính sách sở hữu trí tuệ là một bộ phận không thể tách rời trong chiến lược, chính sách phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội của quốc gia và các ngành, lĩnh vực. Chiến lược đã đánh dấu một bước phát triển mới trong lĩnh vực sở hữu trí tuệ, xác định rõ hoạt động sở hữu trí tuệ có sự tham gia tích cực của tất cả các chủ thể trong xã hội, trong đó, viện nghiên cứu, trường đại học, các cá nhân hoạt động sáng tạo, các 366 Hội thảo Khoa học “Các vấn đề đương đại trong lĩnh vực Kinh tế, Luật: Từ lí thuyết đến thực tiễn” doanh nghiệp đóng vai trò chủ đạo trong việc tạo ra và khai thác tài sản trí tuệ góp phần vào phát triển kinh tế – xã hội một cách bền vững. Theo số liệu thống kê của Cục Sở hữu Trí tuệ, năm 2019, Việt Nam có 1.128 đơn sáng chế được đăng kí, tăng 42% so với cùn ...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Pháp luật về khai thác thương mại đối với sáng chế của doanh nghiệp Việt Nam trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế Hội thảo Khoa học “Các vấn đề đương đại trong lĩnh vực Kinh tế, Luật: Từ lí thuyết đến thực tiễn” PHÁP LUẬT VỀ KHAI THÁC THƯƠNG MẠI ĐỐI VỚI SÁNG CHẾ CỦA DOANH NGHIỆP VIỆT NAM TRONG BỐI CẢNH HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ TRADE MINING LAW FOR INVESTMENT OF VIETNAM ENTERPRISES IN THE INTEGRATION CONTEXT INTERNATIONAL ECONOMY NCS. Lê Đức Hiền1 Tóm tắt – Trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay, việc nâng cao năng lực cạnh tranh có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với các doanh nghiệp nước ta, đặc biệt là cạnh tranh trong việc đổi mới công nghệ hiện đại thông qua các tài sản trí tuệ, trong đó có sáng chế. Chính vì vậy, việc cải tiến, đổi mới cũng như khai thác thương mại đối với sáng chế cần phải được hoạt động hiệu quả hơn. Thông qua bài viết này, trên cơ sở phân tích quy định của pháp luật Việt Nam về khai thác thương mại đối với sáng chế, thực tiễn áp dụng và đề xuất một số kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động khai thác thương mại đối với sáng chế của doanh nghiệp Việt Nam trong bối cảnh hội nhập. Từ khóa: doanh nghiệp Việt Nam; khai thác thương mại đối với sáng chế, sáng chế. 1. KHÁI NIỆM KHAI THÁC THƯƠNG MẠI ĐỐI VỚI SÁNG CHẾ Sáng chế là giải pháp kĩ thuật dưới dạng sản phẩm hoặc quy trình nhằm giải quyết một vấn đề xác định bằng việc ứng dụng các quy luật tự nhiên [1]. Sáng chế là sản phẩm hay quy trình do con người tạo ra chứ không phải là những gì đã tồn tại trong tự nhiên được con người phát hiện ra. Sử dụng sáng chế là việc thực hiện các hành vi sau đây: sản xuất sản phẩm được bảo hộ; áp dụng quy trình được bảo hộ; khai thác công dụng của sản phẩm được bảo hộ hoặc sản phẩm được sản xuất theo quy trình được bảo hộ; lưu thông, quảng cáo, chào hàng, tàng trữ để lưu thông sản phẩm và nhập khẩu sản phẩm [1]. Luật Thương mại 2005 quy định: ‘Hoạt động thương mại là hoạt động sinh lợi, bao gồm mua bán, cung ứng dịch vụ, đầu tư, xúc tiến thương mại và các hoạt động nhằm mục đích sinh lợi khác’ [2]. 1 Trường Đại học Quy Nhơn; Email: duchiendhqn@gmail.com 365 Hội thảo Khoa học “Các vấn đề đương đại trong lĩnh vực Kinh tế, Luật: Từ lí thuyết đến thực tiễn” Để khai thác thương mại đối với sáng chế, trước tiên, sáng chế phải được bảo hộ. Nếu sáng chế được bảo hộ dưới hình thức cấp bằng độc quyền sáng chế thì nó phải đáp ứng các điều kiện: có tính mới, có trình độ sáng tạo, có khả năng áp dụng công nghiệp. Thương mại hóa kết quả nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ là hoạt động khai thác, hoàn thiện, ứng dụng, chuyển giao, hoạt động khác có liên quan đến kết quả nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ nhằm mục đích thu lợi nhuận [3]. Như vậy, pháp luật sở hữu trí tuệ chưa có quy định cụ thể khái niệm khai thác thương mại đối với sáng chế. Tuy nhiên, căn cứ các quy định của pháp luật liên quan đã nêu ở trên, có thể hiểukhai thác thương mại đối với sáng chế là hoạt động khai thác các khía cạnh thương mại của sáng chế sau khi được bảo hộ thông qua các hình thức như chủ sở hữu tự mình khai thác sáng chế, chuyển nhượng quyền sở hữu sáng chế, chuyển giao quyền sử dụng sáng chế, chủ sở hữu thế chấp, góp vốn để kinh doanh, thành lập doanh nghiệp bằng quyền sở hữu công nghiệp đối với sáng chế nhằm mục đích thu lợi nhuận. 2. THỰC TRẠNG KHAI THÁC THƯƠNG MẠI ĐỐI VỚI SÁNG CHẾ CỦA DOANH NGHIỆP VIỆT NAM TRONG BỐI CẢNH HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ Hội nhập kinh tế quốc tế là quá trình chủ động gắn kết nền kinh tế và thị trường của từng nước với kinh tế khu vực và thế giới thông qua các nỗ lực tự do hóa và mở cửa trên các cấp độ đơn phương, song phương và đa phương. Hội nhập thực chất là sự chủ động tham gia vào quá trình toàn cầu hóa và khu vực hóa [4]. Trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế đòi hỏi các doanh nghiệp Việt Nam không ngừng nỗ lực đổi mới, nâng cao sức cạnh tranh thông qua việc cải tiến chất lượng sản phẩm. Tức là, cần phải đầu tư nhiều công nghệ kĩ thuật hiện đại qua việc nghiên cứu và sáng tạo để có nhiều sáng chế nhằm tạo ra những sản phẩm chất lượng, đủ sức cạnh tranh trên thị trường Việt Nam cũng như quốc tế và đáp ứng yêu cầu hội nhập. Tuy nhiên, nếu chỉ có sáng chế mà không thực hiện việc đăng kí bảo hộ thì tình trạng xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ từ việc “lấy cắp” công nghệ là rất lớn. Vì vậy, để khuyến khích cũng như thúc đẩy hoạt động sáng tạo và giúp các doanh nghiệp trong việc đăng kí bảo hộ sáng chế thì cơ chế bảo hộ sáng chế cần được hoạt động hiệu quả hơn. Bên cạnh đó, các doanh nghiệp cần đẩy mạnh việc khai thác thương mại đối với sáng chế nhằm mang lại lợi nhuận. Ngày 22 tháng 8 năm 2019, Thủ tướng Chính phủ đã kí Quyết định số 1068/QĐ- TTg phê duyệt Chiến lược sở hữu trí tuệ đến năm 2030, khẳng định chính sách sở hữu trí tuệ là một bộ phận không thể tách rời trong chiến lược, chính sách phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội của quốc gia và các ngành, lĩnh vực. Chiến lược đã đánh dấu một bước phát triển mới trong lĩnh vực sở hữu trí tuệ, xác định rõ hoạt động sở hữu trí tuệ có sự tham gia tích cực của tất cả các chủ thể trong xã hội, trong đó, viện nghiên cứu, trường đại học, các cá nhân hoạt động sáng tạo, các 366 Hội thảo Khoa học “Các vấn đề đương đại trong lĩnh vực Kinh tế, Luật: Từ lí thuyết đến thực tiễn” doanh nghiệp đóng vai trò chủ đạo trong việc tạo ra và khai thác tài sản trí tuệ góp phần vào phát triển kinh tế – xã hội một cách bền vững. Theo số liệu thống kê của Cục Sở hữu Trí tuệ, năm 2019, Việt Nam có 1.128 đơn sáng chế được đăng kí, tăng 42% so với cùn ...
Tìm kiếm theo từ khóa liên quan:
Doanh nghiệp Việt Nam Hội nhập kinh tế quốc tế Đổi mới công nghệ Tài sản trí tuệ Khai thác thương mạiGợi ý tài liệu liên quan:
-
205 trang 427 0 0
-
Những hạn chế trong xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam và giải pháp khắc phục hạn chế
18 trang 348 0 0 -
Phát triển bền vững của doanh nghiệp Việt Nam thông qua bộ chỉ số doanh nghiệp bền vững (CSI)
8 trang 316 0 0 -
Các yếu tố ảnh hưởng đến quyết định mua sắm trực tuyến của người tiêu dùng thế hệ Z thành phố Hà Nội
12 trang 213 1 0 -
Trách nhiệm xã hội của doanh nghiêp: Vấn đề đặt ra từ thực tế ở Việt Nam
6 trang 182 0 0 -
11 trang 172 4 0
-
3 trang 167 0 0
-
23 trang 166 0 0
-
97 trang 161 0 0
-
Xu hướng chuyển đổi báo cáo tài chính Việt Nam theo chuẩn mực báo cáo tài chính quốc tế
5 trang 137 0 0