Danh mục

Phẫu thuật nội soi một đường rạch điều trị nang ống mật chủ ở trẻ em

Số trang: 5      Loại file: pdf      Dung lượng: 287.51 KB      Lượt xem: 10      Lượt tải: 0    
Jamona

Phí lưu trữ: miễn phí Tải xuống file đầy đủ (5 trang) 0
Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:

Thông tin tài liệu:

Nội dung bài viết với mục tiêu nhằm mô tả kỹ thuật và báo cáo kết quả bước đầu phẫu thuật nội soi một đường rạch trong điều trị nang ống mật chủ ở trẻ em. Nghiên cứu dựa trên các bệnh nhân được thực hiện soi một đường rạch điều trị nang ống mật chủ tại bệnh viện Nhi Trung ương từ tháng 9/2012 đến tháng 5/2013.
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Phẫu thuật nội soi một đường rạch điều trị nang ống mật chủ ở trẻ em Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 3 * 2013  Nghiên cứu Y học PHẪU THUẬT NỘI SOI MỘT ĐƯỜNG RẠCH   ĐIỀU TRỊ NANG ỐNG MẬT CHỦ Ở TRẺ EM  Trần Ngọc Sơn*, Nguyễn Thanh Liêm*, Vũ Xuân Hoàn*  TÓM TẮT  Mục tiêu: Mô tả kỹ thuật và báo cáo kết quả bước đầu phẫu thuật nội soi một đường rạch (SILS) trong điều  trị nang ống mật chủ ở trẻ em.  Phương pháp nghiên cứu: Hồi cứu lại các bệnh nhân được thực hiện SILS điều trị nang ống mật chủ tại  bệnh viện Nhi Trung Ương từ tháng 9/2012 đến tháng 5/2013. Chúng tôi sử dụng một đường rạch rốn hình  chữ Z và đặt 3 trocar 3 – 5 mm ở các chỗ khác nhau trong phạm vi đường rạch da này. Quai hỗng tràng Roux‐ en‐Y được tạo ra ở bên ngoài ổ bụng qua đường rạch rốn. Cắt nang ống mật chủ và nối ống gan chung với ruột  được thực hiện với các dụng cụ nội soi thẳng thông thường.  Kết quả: Có 34 bệnh nhân thuộc diện nghiên cứu, với tuổi trung vị là 12 tháng (dao động 1 tháng đến 7  tuổi). Các triệu chứng lâm sàng phổ biến nhất là đau bụng (50 %), vàng da (41,2%), nôn (26,5%). Kích thước  trung vị của nang ống mật chủ là 4,8 cm (dao động 2,3 cm ‐ 12,5 cm). Nang ống mật chủ được cắt thành công ở  tất cả các trường hợp. Có 8 bệnh nhân (23,5%) được thực hiện tạo hình ống gan chung khi ống này đường kính  nhỏ hơn 5 mm. Nối ống gan chung ‐ hỗng tràng được thực hiện ở 32 bệnh nhân, nối ống gan chung tá tràng ‐ ở  2 bệnh nhân. Một bệnh nhân (2,9%) cần phải đặt thêm 3 trocar để thực hiện miệng nối với ống mật phụ bất  thường. Thời gian mổ trung vị là 200 phút (dao động 150 ‐ 450 phút). Dẫn lưu ổ bụng được đặt ở 7 bệnh nhân  đầu tiên còn 27 bệnh nhân tiếp theo (79,4%) không đặt dẫn lưu. Không có biến chứng trong mổ. Sau mổ không  có bệnh nhân nào bị rò miệng nối, có 1 bệnh nhân (2,9%) bị nhiễm khuẩn rốn. Tất cả các bệnh nhân được ra viện  với sức khỏe tốt với thời gian nằm viện sau mổ trung bình là 5,2 ngày (dao động 4 ‐ 7 ngày). Kết quả thẩm mỹ  sau mổ là rất tốt. Với thời gian theo dõi 1 ‐ 9 tháng, có 1 bệnh nhân bị viêm tắc mật do hẹp miệng nối phải phẫu  thuật làm lại miệng nối. Tất cả các bệnh nhân khác đều trong tình trạng sức khỏe tốt.  Kết luận: Phẫu thuật nội soi một đường rạch qua rốn dùng dụng cụ thẳng thông thường điều trị nang ống  mật chủ ở trẻ em là khả thi, an toàn và có kết quả thẩm mỹ rất tốt. Kỹ thuật này là một lựa chọn tốt trong điều trị  phẫu thuật nang ống mật chủ ở trẻ em ở các trung tâm phẫu thuật nội soi có nhiều kinh nghiệm.  Từ khóa: Phẫu thuật nội soi nang ống mật chủ ở trẻ em.  ABSTRACT  SINGLE INCISION LAPAROSCOPIC SURGERY FOR CHOLEDOCHAL CYST IN CHILDREN  Tran Ngoc Son, Nguyen Thanh Liem, Vu Xuan Hoan  * Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 17 ‐ Supplement of No 3 ‐ 2013: 80 ‐ 84  Objectives:  The  aim  of  this  study  is  to  describe  our  techniques  and  present  our  initial  results  of  single  incision laparoscopic surgery (SILS) for childhood choledochal cyst (ChC).  Methods: Medical records of all children undergoing SILS for ChC at National Hospital of Pediatrics from  September,  2012  to  March,  2013  were  reviewed.  Our  SILS  operations  started  with  a  z‐shaped  umbilical  skin  incision and placement of three 3‐5 mm ports at separate places in the same incision site. Roux‐en ‐Y loop was  created extracorporally through the umbilical incision. Excision of ChC and hepatico intestinal anastomosis were  * Bệnh viện Nhi Trung Ương  Tác giả liên lạc: TS. BS. Trần Ngọc Sơn  Chuyên Đề Ngoại Nhi  ĐT: 0462738854   Email: drtranson@yahoo.com  81 Nghiên cứu Y học  Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 3 * 2013 performed using conventional straight laparoscopic instruments.   Results:  34  patients  were  identified  with  median  age  12  months  (range:  1  month  ‐  7  years).  The  most  common clinical manifestations were abdominal pain (50%), jaundice (41.2%), vomiting (26.5%). The median  size  of  ChC  was  4.8  cm  (range:  2.3  cm  ‐12.5  cm).  The  ChC  was  successfully  excised  by  SILS  in  all  cases.  Hepaticoplasty  was  performed  in  8  cases  (23.5%)  with  hepatic  duct  diameter  less  than  5  mm.  Hepatico‐ jejunostomy  was  performed  in  32  patients  and  hepatico‐duodenostomy  in  2  patients.  Additional  3  ports  were  needed  in  one  patient  for  performing  anastomosis  with  an  aberrant  duct.  The  median  operative  time  was  200  minutes (range 150 minutes to 450 minutes). Abdominal drain was used in the first 7 cases and all next 27 cases  (79.4%) no drain was used. There was no intra‐operative complication and no anastomotic leakage. One patient  (2.9%)  had  postoperative  umbilical  infection.  All  patients  were  discharged  in  good  health  with  a  mean  postoperative  stay  of  5.2  days  (range  4‐7days).  The  postoperative  cosmesis  was  excellent.  At  follow  up  1  –  9  months,  one  patient  suffered  from  jaundice  and  cholangitis  due  to  anastomotic  stenosis  r ...

Tài liệu được xem nhiều:

Gợi ý tài liệu liên quan: