Cuối thế kỷ XIV thời Trần Thuận Tông đã lấy đất Cổ Mai phong cho thượng tướng Trần Khát Chân dựng thái ấp trên gò Kỳ Lân. Đến đầu thế kỷ XVI nhà Mạc đã cho tách một phần đất Hoàng Mai lập ra làng Tương Mai. Cuối thế kỷ XVI năm Nhâm thân (1952) tiết chế Trịnh Tùng đem quân ra Thăng Long đánh Mạc Hậu Hợp, sai tướng Trịnh Ninh Thái phó Nguyễn Hữu Liêu dinh tả khu đem 1 vạn binh tượng đánh cầu dừa tiến thẳng cửa Tây, tướng dinh hữu khu là Thái úy...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
PHỦ TUẤN NGHĨA CỦA DƯƠNG LỄ CÔNG TRỊNH ĐỖ Ở HOÀNG MAI (THẾ KỶ XVI, XVII KINH ĐÔ THĂNG LONG)
PHỦ TUẤN NGHĨA CỦA DƯƠNG LỄ CÔNG
TRỊNH ĐỖ Ở HOÀNG MAI (THẾ KỶ XVI,
XVII KINH ĐÔ THĂNG LONG)
tượng Thạc quận công Trịnh Tạc và phu
nhân ở phủ Tuấn Nghĩa
Cuối thế kỷ XIV thời Trần Thuận Tông đã lấy đất Cổ Mai phong cho thượng
tướng Trần Khát Chân dựn g thái ấp trên gò Kỳ Lân. Đến đầu thế kỷ XVI nhà Mạc
đã cho tách một phần đất Hoàng Mai lập ra làng Tương Mai. Cuối thế kỷ XVI năm
Nhâm thân (1952) tiết chế Trịnh Tùng đem quân ra Thăng Long đánh Mạc Hậu
Hợp, sai tướng Trịnh Ninh Thái phó Nguyễn Hữu Liêu dinh tả khu đem 1 vạn binh
tượng đánh cầu dừa tiến thẳng cửa Tây, tướng dinh hữu khu là Thái úy Hoàng
Đình ái và Trịnh Đồng đem 1 vạn 500 binh tượng đánh phá cầu Dền tiến thẳng
cửa Nam Giao. Tướng dinh tiễn khu là Thái bảo Tả đô đốc Ngạn quận công Trịnh
Đỗ đem cơ trung quân cùng Thụy tráng hầu hợp binh tượng gồm 1 vạn 2000 quân
đánh phá Cầu Muống tiến thẳng đến cửa Cầu Gỗ (phố Cầu Gỗ hồ Ho àn Kiếm
ngày nay). Tiết chế Trịnh Tùng đốc suất binh tượng đại dinh gồm 2 vạn 5000 quân
làm hậu đội tiến đến Hồng Mai đón g quân (nay là phố Bạch Mai)
(ĐVKSTT/T3/Tr172). Sách Toàn thư viết, Chiến trận “Từ giờ Tỵ đến giờ Mùi
chưa phân thắng bại... quân Trịnh,
Sau chiến thắng vang dội, giải phóng kinh đô Thái bảo Ngạn quận công Trịnh Đỗ
đóng quân ở đại bản doanh ở Hoàng Mai, mở phủ tại đây. Lúc đó ông là quan
Trung quân đô đốc phủ, Tả đô đốc Ch ưởng phủ sự, Thái phó Ngạn quận công
(1593). Khu vực Hoàng Mai, Quỳnh Lôi, Mai Động rộng lớn thuận tiện thủy bộ là
nơi Trịnh Đỗ đóng quân bảo vệ kinh thành Thăng Long. Tiết chế Trịnh Tung hạ
lệnh các dinh ra phường Phúc Lâm xây dựng Vương phủ.
Khu vực dinh Tuấn Nghĩa (1609) (ĐVKSTT/T3/Tr314) là phủ Thái úy Dương Lễ
công Trịnh Đỗ ở Hoàng Mai từ 1592 đến 1628 là một thời gian dài, sau đó còn tồn
tại đến năm 1943 là một nền phủ các xà gỗ đổ xập trên một khu phế tích rộng lớn,
ông đã có nhiều đóng góp, xây dựng công ích, mở mang đền chùa, phát triển văn
hóa làm cho nơi này trù phú. Nhiều di tích đền chùa còn lại đến nay vẫn còn lưu
truyền như khu đầu phủ là dinh phủ của Thái úy Phụng Quốc công Chưởng phủ
sự. Ông là một danh tướng vào sinh ra tử giành nhiều chiến công trong cuộc trung
hưng nhà Lê. Năm Bính Dần niên hiệu Vĩnh Tộ (1626) sách phong Tả t ướng
Dương Lễ Công Trịnh Đỗ (ĐVSK bản kỷ tục biên trang 330). Phó nguyên soái,
ông là em thân cận của chúa Trịnh Tùng. Dương Lễ Công Trịnh Đỗ tính tình đôn
hậu, hòa nhã, chuộng đạo phật. Mai Lĩnh hầu, thượng trụ quốc Phùng Khắc Khoan
đã ca ngợi tấm bia còn lại đến nay ở chùa Long Khánh (làng Quỳnh Lôi) đã viết:
“ở trong cảnh giàu sang mà không kiêu căng xa xỉ, giáo dục con cái biết phát tâm
bồ đề”. Gia đình ông còn xây dựng trùng tu nhiều chùa như chùa Nga My, chùa
Thắng Minh, đình Mai Động, đặc biệt là chùa Long Khánh làng Quỳnh Lôi (khu
Hai Bà Trưng) đây là khu chùa c ổ có từ thời Lý Trần thuộc huyện Thanh Trì. Năm
Giáp Thìn (1604) niên hiệu Hoằng Định đã được Gia đình ông tu sửa tôn tạo, tiếp
tục đến năm Bính Ngọ (1606) con của D ương Lễ công Trịnh Đỗ là Trịnh Tạc chỉ
huy Cẩm y Vệ, Đô chỉ huy sứ, Thư vệ sự tước phù Lương hầu tiến hành mở rộng
chùa to lớn xây tiền đường, đắp tượng đã được Mai Lĩnh hầu Phùng Khắc Khoan
viết trong bia ký (trùng tu Long Khánh tự bị) đã được dịch in trong Tổng tập văn
bia Hà Nội năm 1978 như sau: “Văn bia trùng tu chùa Long Khánh. Có công đ ức
to lớn đối với Phật thánh thì nhất định được ghi vào bia để lưu truyền dài lâu.
Năm Mậu Thìn (1628) Thái úy Chưởng phủ sự Dương Lễ công Trịnh Đỗ mất tại
Hoàng Mai được phong Thái tể Phụng Quốc công đặc tiến phó súy Phủ, tả t ướng
Thụy hiệu là ý Thuần, gia phong mỹ tự: “... khiêm cẩm, cung hòa đạt tôn, hiển uy
hộ quốc, trợ chính khu ty, khiêm-đức-cung-thuận-cẩn-nghi-phù cương - tán bệnh-
kiến công- kỳ mở- diệu- thắng địch”.
Tuy- dân- phủ- chúng- duệ... trí hùng lược anh huy. Gia tôn tỉnh biên an quốc hàm
chính, thùy tục... Thệ tứ Thụy năm ất M ùi (1555) mất ngày 17 tháng 6 năm Mậu
Thìn niên hiệu Vĩnh tộ năm thứ 10 (1628) hưởng thọ 72 tuổi (Đại Việt sử ký - Bản
kỷ tục biên/T3/Tr332) di tích Lăng Trịnh Đỗ tại Trịnh Điện Thanh Hóa. Lăng
chầu thái tể Phụng quốc công Trịnh Đỗ xây trên sườn núi Nga Mi, hiện nay chỉ
còn hai ngựa đá chầu nguyên khối cao 2m, dài 2m, rộng 0,6m, ngựa được tạc theo
dáng ngựa chiến, thon, cao, ức nở, chạm trổ rất mỹ thuật có giá trị điêu khắc ở thế
kỷ XVIII. Phía dưới là hồ bán nguyệt thường gọi là ao phủ, hiện nay được tu sửa
bước đầu xây bao quanh lăng.
Tại khu vực Hoàng Mai có dinh của con Thái úy Trịnh Đỗ là quan Cẩm y vệ Đô
chỉ huy sứ ty, Đô chỉ huy sứ, Thư vệ sự Thạc quận công Trịnh Tạc và Thạc phu
nhân. Hai ông bà đều chuộng đạo Phật, làm nhiều điều tốt, phát triển xây dựng
nhiều công đức đền chùa, tạc nhiều tượng Phật. Khi hai ông bà mất, dân chúng
trong vùng tạc tượng thờ hậu ông bà Thạc quận công ở chùa Long Khánh. Hai pho
tượng còn lưu giữ nhiều đặc điểm trang phục thời Lê Trịnh, nét m ...