Phương thức Gây mê
Số trang: 35
Loại file: pdf
Dung lượng: 167.00 KB
Lượt xem: 12
Lượt tải: 0
Xem trước 4 trang đầu tiên của tài liệu này:
Thông tin tài liệu:
Gây mê là phương pháp vô cảm nhằm mục đích làm mất tạm thời ý thức cảm giác, các phản xạ, bằng các thuốc mê tác động trên thần kinh trung ương.Hoặc nói một cách khác là: Gây mê là một sự nhiễm độc có định lượng, có kiểm soát, một sự nhiễm độc dần dần thuốc mê dẫn đến mất cảm giác tạm thời, mất ý thức và giãn cơ, hồi phục được và không để lại di chứng. 2. Cơ chế.Cơ chế một giấc ngủ (giấc mê) không đơn giản. Rất nhiều thuyết, rất nhiều phương án đưa...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Phương thức Gây mêGây mê Gây mê1. Định nghĩa.Gây mê là phương pháp vô cảm nhằm mục đích làm mất tạm thời ý thức cảm giác,các phản xạ, bằng các thuốc mê tác động trên thần kinh trung ương.Hoặc nói một cách khác là:Gây mê là một sự nhiễm độc có định lượng, có kiểm soát, một sự nhiễm độc dầndần thuốc mê dẫn đến mất cảm giác tạm thời, mất ý thức và giãn cơ, hồi phụcđược và không để lại di chứng.2. Cơ chế.Cơ chế một giấc ngủ (giấc mê) không đơn giản. Rất nhiều thuyết, rất nhiềuphương án đưa ra để giải thích cho vấn đề này nhưng chưa có cách giải thích nàohoàn toàn thoả đáng. Mặt khác, bản chất của giấc ngủ có lẽ cũng thay đổi ít nhiềutùy theo chức năng của các thuốc gây ngủ. Thực sự nếu hiểu được cơ chế giấc ngủthì người ta sẽ giải thích được những tác dụng khác nhau của các thuốc gây ngủ ởcác mức độ:+ Toàn bộ cơ thể.+ Hệ thống thần kinh, khi coi hệ thống này hoạt động như một thực thể xác định.+ Sau cùng ở mức độ nhỏ nhất là tế bào, thậm chí ở cả các thành phần cấu tạo củatế bào.2.1. ở mức tế bào:2.1.1. Sự thay đổi về lý - hoá học:Claude Bernord đã nhận thấy ở tất cả các tế bào thực vật cũng như động vật đều cósự thay đổi về hình dáng của đại thực bào ngay khi chúng chịu tác dụng của thuốcgây mê. Điều này dẫn đến sự hạn chế toàn bộ hoạt động của nguyên sinh chất diễnra theo bản chất và hình thức thể hiện của nó.Dưới kính hiển vi, người ta có thể nhìn thấy bằng mắt thường sự biến đổi chất nàytương đương với sự thay đổi dạng keo trong lòng tế bào.Sự đông vón thành phần lipid của nguyên sinh chất tế bào nhường chỗ cho sựđông vón của thành phần protid dưới tác dụng của thuốc gây mê và điều này diễnra một cách khá phổ biến. Tuy nhiên sự đông vón thành phần protid này lại trở vềtrạng thái ban đầu trước các thành phần lipid.Trong thực tế, sự thay đổi này dẫn đến hiện tượng tăng thành phần lipid mà hậuquả là làm tăng độ nhớt của huyết t ương. Cuối cùng hiện tượng này làm cản trởhoạt động của các ion trong tế bào, điều này giải thích sự thay đổi hoạt động của tếbào, bất kể chức năng của tế bào đó là như thế nào.2.1.2. Sự thay đổi về hoá học:Bên cạnh những sự thay đổi về lý - hoá học, còn có những thay đổi thuần tuý vềmặt hoá học. Những sự thay đổi này giải thích một phần hiện tượng giảm hoạtđộng của tế bào, trong đó các hiện tượng cạnh tranh và đối kháng hoá học là lý docủa việc giảm hoặc cản trở hoạt động của một vài hệ thống men cơ bản.Một ví dụ điển hình là hiện tượng ức chế các men hexokinaza do những thuốc họbacbituric, từ đó dẫn đến việc gluxit chuyển hoá thành triose chứ không phải làhexose như khi không dùng thuốc.2.1.3. Sự ức chế:Mặc dù có nhiều cơ chế tạo ra sự ức chế nhưng kết quả đều là việc làm giảm sựtiêu thụ oxy tế bào. Trong một số trường hợp, điều này là tác dụng phụ xảy ratrong gây mê, nhưng trong một số trường hợp khác, đây lại là tác dụng tức thì củathuốc gây mê.Tuy nhiên, rõ ràng là hiện tượng thiếu oxy tế bào với tư cách là nguyên nhân hayhậu quả của gây mê đã làm thay đổi giới hạn sinh lý của đời sống tế bào.Đối với bác sỹ chuyên khoa, gây mê có nghĩa là làm giảm đến mức thấp nhấtlượng tiêu thụ oxy mà tế bào được cung cấp.2.2. Mức toàn bộ cơ thể:Cần phải xác định vị trí tác dụng chọn lọc của những thuốc gây mê tại vùng thểlưới của thân não.Các thí nghiệm đã chứng minh: sự tác động qua lại giữa hành não và đồi não điềuhoà tình trạng thức và ngủ. Dưới tác dụng của thuốc gây mê, hiệu điện thế chọnlọc tại vùng này cũng thay đổi so với ban đầu, mặc dù trước đó không có sự thayđổi điện não đồ tại vùng vỏ não.Kết quả là người ta có thể làm giảm những hiện tượng ban đầu xác định ở hoạtđộng của thân não và hành não qua quá trình sinh hoá và hoá h ọc đã được nói tới ởphần trước, điều này diễn ra trước tất cả các tác dụng của thuốc gây mê.3. Các giai đoạn của gây mê (theo Guedel).3.1. Nghiên cứu lâm sàng:Đã từ lâu, gây mê đồng nghĩa với việc tạo ra giấc ngủ mong muốn, càng giốnggiấc ngủ bình thường càng tốt.+ Trên lâm sàng nghiên cứu trên một người trưởng thành khoẻ mạnh và gây mêđơn thuần bằng ether và được theo dõi dựa trên các yếu tố sau:- Những phản xạ và trương lực cơ.- Vận động hô hấp.- Sự thay đổi về tim mạch.- Biểu hiện của da.+ Trương lực cơ:Được duy trì bởi phản xạ nhận cảm bản thể. Phản xạ này giảm rõ ở đầu giai đoạnIII và sẽ biến mất ở cuối giai đoạn này. Điều này làm mềm, bắt đầu là cơ mặt vàcuối cùng là các cơ thắt khi đạt tới giai đoạn nhiễm độc. Khi dừng gây mê, trươnglực cơ sẽ diễn ra theo chiều ngược lại.+ Phản xạ:Những nghiên cứu về phản xạ trong cuộc gây mê là nền tảng để có thể hiểu biếtsâu hơn về gây mê.Tiến trình của những phản xạ này là tăng dần, chúng biến mất theo một thứ tự nhấtđịnh và lại xuất hiện theo thứ tự ngược lại khi cuộc gây mê kết thúc.- Các phản xạ nuốt, nôn biến mất dần dần ở cuối giai đoạn thứ II (hoặc ...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Phương thức Gây mêGây mê Gây mê1. Định nghĩa.Gây mê là phương pháp vô cảm nhằm mục đích làm mất tạm thời ý thức cảm giác,các phản xạ, bằng các thuốc mê tác động trên thần kinh trung ương.Hoặc nói một cách khác là:Gây mê là một sự nhiễm độc có định lượng, có kiểm soát, một sự nhiễm độc dầndần thuốc mê dẫn đến mất cảm giác tạm thời, mất ý thức và giãn cơ, hồi phụcđược và không để lại di chứng.2. Cơ chế.Cơ chế một giấc ngủ (giấc mê) không đơn giản. Rất nhiều thuyết, rất nhiềuphương án đưa ra để giải thích cho vấn đề này nhưng chưa có cách giải thích nàohoàn toàn thoả đáng. Mặt khác, bản chất của giấc ngủ có lẽ cũng thay đổi ít nhiềutùy theo chức năng của các thuốc gây ngủ. Thực sự nếu hiểu được cơ chế giấc ngủthì người ta sẽ giải thích được những tác dụng khác nhau của các thuốc gây ngủ ởcác mức độ:+ Toàn bộ cơ thể.+ Hệ thống thần kinh, khi coi hệ thống này hoạt động như một thực thể xác định.+ Sau cùng ở mức độ nhỏ nhất là tế bào, thậm chí ở cả các thành phần cấu tạo củatế bào.2.1. ở mức tế bào:2.1.1. Sự thay đổi về lý - hoá học:Claude Bernord đã nhận thấy ở tất cả các tế bào thực vật cũng như động vật đều cósự thay đổi về hình dáng của đại thực bào ngay khi chúng chịu tác dụng của thuốcgây mê. Điều này dẫn đến sự hạn chế toàn bộ hoạt động của nguyên sinh chất diễnra theo bản chất và hình thức thể hiện của nó.Dưới kính hiển vi, người ta có thể nhìn thấy bằng mắt thường sự biến đổi chất nàytương đương với sự thay đổi dạng keo trong lòng tế bào.Sự đông vón thành phần lipid của nguyên sinh chất tế bào nhường chỗ cho sựđông vón của thành phần protid dưới tác dụng của thuốc gây mê và điều này diễnra một cách khá phổ biến. Tuy nhiên sự đông vón thành phần protid này lại trở vềtrạng thái ban đầu trước các thành phần lipid.Trong thực tế, sự thay đổi này dẫn đến hiện tượng tăng thành phần lipid mà hậuquả là làm tăng độ nhớt của huyết t ương. Cuối cùng hiện tượng này làm cản trởhoạt động của các ion trong tế bào, điều này giải thích sự thay đổi hoạt động của tếbào, bất kể chức năng của tế bào đó là như thế nào.2.1.2. Sự thay đổi về hoá học:Bên cạnh những sự thay đổi về lý - hoá học, còn có những thay đổi thuần tuý vềmặt hoá học. Những sự thay đổi này giải thích một phần hiện tượng giảm hoạtđộng của tế bào, trong đó các hiện tượng cạnh tranh và đối kháng hoá học là lý docủa việc giảm hoặc cản trở hoạt động của một vài hệ thống men cơ bản.Một ví dụ điển hình là hiện tượng ức chế các men hexokinaza do những thuốc họbacbituric, từ đó dẫn đến việc gluxit chuyển hoá thành triose chứ không phải làhexose như khi không dùng thuốc.2.1.3. Sự ức chế:Mặc dù có nhiều cơ chế tạo ra sự ức chế nhưng kết quả đều là việc làm giảm sựtiêu thụ oxy tế bào. Trong một số trường hợp, điều này là tác dụng phụ xảy ratrong gây mê, nhưng trong một số trường hợp khác, đây lại là tác dụng tức thì củathuốc gây mê.Tuy nhiên, rõ ràng là hiện tượng thiếu oxy tế bào với tư cách là nguyên nhân hayhậu quả của gây mê đã làm thay đổi giới hạn sinh lý của đời sống tế bào.Đối với bác sỹ chuyên khoa, gây mê có nghĩa là làm giảm đến mức thấp nhấtlượng tiêu thụ oxy mà tế bào được cung cấp.2.2. Mức toàn bộ cơ thể:Cần phải xác định vị trí tác dụng chọn lọc của những thuốc gây mê tại vùng thểlưới của thân não.Các thí nghiệm đã chứng minh: sự tác động qua lại giữa hành não và đồi não điềuhoà tình trạng thức và ngủ. Dưới tác dụng của thuốc gây mê, hiệu điện thế chọnlọc tại vùng này cũng thay đổi so với ban đầu, mặc dù trước đó không có sự thayđổi điện não đồ tại vùng vỏ não.Kết quả là người ta có thể làm giảm những hiện tượng ban đầu xác định ở hoạtđộng của thân não và hành não qua quá trình sinh hoá và hoá h ọc đã được nói tới ởphần trước, điều này diễn ra trước tất cả các tác dụng của thuốc gây mê.3. Các giai đoạn của gây mê (theo Guedel).3.1. Nghiên cứu lâm sàng:Đã từ lâu, gây mê đồng nghĩa với việc tạo ra giấc ngủ mong muốn, càng giốnggiấc ngủ bình thường càng tốt.+ Trên lâm sàng nghiên cứu trên một người trưởng thành khoẻ mạnh và gây mêđơn thuần bằng ether và được theo dõi dựa trên các yếu tố sau:- Những phản xạ và trương lực cơ.- Vận động hô hấp.- Sự thay đổi về tim mạch.- Biểu hiện của da.+ Trương lực cơ:Được duy trì bởi phản xạ nhận cảm bản thể. Phản xạ này giảm rõ ở đầu giai đoạnIII và sẽ biến mất ở cuối giai đoạn này. Điều này làm mềm, bắt đầu là cơ mặt vàcuối cùng là các cơ thắt khi đạt tới giai đoạn nhiễm độc. Khi dừng gây mê, trươnglực cơ sẽ diễn ra theo chiều ngược lại.+ Phản xạ:Những nghiên cứu về phản xạ trong cuộc gây mê là nền tảng để có thể hiểu biếtsâu hơn về gây mê.Tiến trình của những phản xạ này là tăng dần, chúng biến mất theo một thứ tự nhấtđịnh và lại xuất hiện theo thứ tự ngược lại khi cuộc gây mê kết thúc.- Các phản xạ nuốt, nôn biến mất dần dần ở cuối giai đoạn thứ II (hoặc ...
Tìm kiếm theo từ khóa liên quan:
phương pháp gây mê chuyên ngành y khoa tài liệu y khoa lý thuyết y học giáo trình y học bài giảng y học bệnh lâm sàng chuẩn đoán bệnhGợi ý tài liệu liên quan:
-
38 trang 166 0 0
-
HƯỚNG DẪN ĐIÊU KHẮC RĂNG (THEO TOOTH CARVING MANUAL / LINEK HENRY
48 trang 166 0 0 -
Access for Dialysis: Surgical and Radiologic Procedures - part 3
44 trang 155 0 0 -
Bài giảng Kỹ thuật IUI – cập nhật y học chứng cứ - ThS. BS. Giang Huỳnh Như
21 trang 152 1 0 -
Bài giảng Tinh dầu và dược liệu chứa tinh dầu - TS. Nguyễn Viết Kình
93 trang 151 0 0 -
Tài liệu Bệnh Học Thực Hành: TĨNH MẠCH VIÊM TẮC
8 trang 124 0 0 -
40 trang 101 0 0
-
Bài giảng Thoát vị hoành bẩm sinh phát hiện qua siêu âm và thái độ xử trí
19 trang 99 0 0 -
Bài giảng Chẩn đoán và điều trị tắc động mạch ngoại biên mạn tính - TS. Đỗ Kim Quế
74 trang 92 0 0 -
40 trang 66 0 0