Danh mục

Quả chua chát và táo mèo Hoàng Liên Sơn

Số trang: 3      Loại file: pdf      Dung lượng: 107.59 KB      Lượt xem: 8      Lượt tải: 0    
Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:

Thông tin tài liệu:

Ở nhiều địa phương miền núi nước ta có một loại quả to như quả lê, màu vàng lục, có vị chua hơi chát vẫn được nhân dân ta dùng làm thức ăn và thuốc kích thích tiêu hoá, gây ngon miệng, dễ tiêu. Bà con Lào Cai gọi nó là quả Chua chát, còn có tên là Sơn tra, được Đông y dùng phổ biến trong các bài thuốc chữa rối loạn tiêu hoá, đầy bụng, khó tiêu.
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Quả chua chát và táo mèo Hoàng Liên Sơn Quả chua chát và táo mèo Hoàng Liên SơnỞ nhiều địa phương miền núi nước ta có một loại quả to như quả lê, màu vànglục, có vị chua hơi chát vẫn được nhân dân ta dùng làm thức ăn và thuốc kíchthích tiêu hoá, gây ngon miệng, dễ tiêu. Bà con Lào Cai gọi nó là quả Chuachát, còn có tên là Sơn tra, được Đông y dùng phổ biến trong các bài thuốcchữa rối loạn tiêu hoá, đầy bụng, khó tiêu.Cây Chua chát có tên khoa học là Malus doumeri. Bois – Chev, thuộc hoạ Hoahồng (Rosaceae). Cây thường mọc hoang hay được trồng ở vùng đồi núi HoàngLiên Sơn. Cây to, cao tới 10-15m, cây non có gai, cành non có lông, sau nhẵn. Lámọc so le, lúc còn non có lông, gốc lá tròn, đầu nhọn, mép khía răng. Hoa họpthành tán, màu trắng nom đẹp gần giống hoa trà mi. Quả tròn, hơi dẹt, nom giốngquả lê, đường kính 5-6cm, khi chín màu vàng lục, ăn có vị chua chát. Cây ra hoavào mùa xuân, có quả vào mùa thu, tháng 9-10.Ngoài cây chua chát nói trên ở vùng núi Hoàng Liên Sơn còn có một loại cây nhỏmọc hoang gọi là cây táo mèo (tên khoa học là Docynia indica (Wall) Dec.) cũngthuộc họ Hoa hồng, ra hoa trắng vào cuối mùa xuân (tháng 3-4) và có quả vào mùathu. Quả táo mèo hình trứng, ăn cũng có vị chua chát và cũng được nhân dân tadùng làm thuốc kích thích tiêu hóa, làm ăn ngon, dễ tiêu với tên Sơn tra.Như vậy vị thuốc mang tên Sơn tra đang được thu mua và sử dụng là do hai câycùng họ hoa hồng cung cấp. Đó là cây chua chát và cây táo mèo. Cả hai quả chuachát và táo mèo đều có vị chua ngọt, hơi chát và có tác dụng chữa bệnh giống nhau.Sơn tra được cả Đông y và Tây y dùng làm thuốc. Trong Sơn tra có axit crataegic,axit tactric, axit xitric, saponin, đường và nhiều loại vitamin. Đặc biệt có haiancaloit là crataegin và oxyacantin, có tác dụng trợ tim, an thần, trợ lực và giả mđau. Đối với tiêu hoá, Sơn tra có tác dụng rõ rệt hơn. Theo Đông y quả Sơn tra cóvị chua chát, hơi ngọt, tính hơi ấm, có tác dụng tiêu thực, chữa đầy bụng, ợ chua,cầm tiêu chảy. Liều dùng trung bình mỗi ngày 10-20g dưới dạng bột, viên, hoặccao lỏng. Cao lỏng được dùng phổ biến hơn, cách làm và dùng cụ thể như sau:Vào mùa thu (tháng 8-10), thu hái quả vừa chín, bổ ngang thành từng phiến dàykhoảng 0,4cm rồi phơi hoặc sấy khô. Lấy 1kg dược liệu, rửa sạch, bỏ hạt, đổ vào 5lít nước, nấu còn một lít. Chắt nước đầu, đổ thêm 3 lít nước nữa, nấu còn nửa lít,lại chắt nước, bỏ bã. Trộn hai nước với nhau, cô còn khoảng một lít. Cho 800 kẹomạch nha hoặc đường vào, khuấy tan, cô đặc còn một lít thành phẩ m. Để nguội,hoà 40ml rượu 500, ngâm Trần bì hoặc Đại hồi. Ngày dùng hai lần, mỗi lần mộtthìa canh.Cũng có thể phối hợp với các vị thuốc khác trong các bài thuốc tiêu thực sau:Bài 1: Sơn tra 25g, Củ sả 25g, Chỉ xác 25g, Vỏ vối 25g, Vỏ quýt 25g, Củ gấu 40g,Gừng tươi 20g, Phèn phi 10g.Cách dùng: Tất cả phơi khô, sao giòn, tán bột mịn. Người lớn mỗi lần uống haithìa cà phê với nước ấm. Trẻ em uống từ nửa thìa đến một thìa cà phê tuỳ tuổi.Bài 2: Sơn tra (sao cháy) 12g, Củ sả 12g, Vỏ quýt 16g.Cách dùng: Cho các vị vào ấm, sắc với 500ml nước còn lấy 200ml. Người lớnchia làm hai lần uống trong ngày. Trẻ em tuỳ tuổi chia làm 3-4 lần uống.

Tài liệu được xem nhiều: