Danh mục

QUÁ TRÌNH NẮM TRI THỨC CỦA HỌC SINH

Số trang: 4      Loại file: pdf      Dung lượng: 98.15 KB      Lượt xem: 13      Lượt tải: 0    
tailieu_vip

Phí tải xuống: miễn phí Tải xuống file đầy đủ (4 trang) 0
Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:

Thông tin tài liệu:

Nắm tri thức là hoạt động nhận thức, hướng vào việc tự giác tiếp thu một cách chắc chắn những kiến thức, kĩ năng, kĩ xảo và biến chúng thành vốn riêng của mỗi học sinh. 1. Nắm kiến thức là một quá trình phức tạp Một trong những dấu hiệu nắm kiến thức là khả năng trình bày lại được bằng lời, bằng dẫn chứng để cụ thể hoá những kiến thức lí thuyết đã học. Nhưng đó chỉ là mức độ sơ đẳng của việc nắm kiến thức. Mức độ cao hơn là khả năng vận dụng được...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
QUÁ TRÌNH NẮM TRI THỨC CỦA HỌC SINH QUÁ TRÌNH NẮM TRI THỨC CỦA HỌC SINH Nắm tri thức là hoạt động nhận thức, hướng vào việc tự giác tiếp thumột cách chắc chắn những kiến thức, kĩ năng, kĩ xảo và biến chúngthành vốn riêng của mỗi học sinh. 1. Nắm kiến thức là một quá trình phức tạp Một trong những dấu hiệu nắm kiến thức là khả năng trình bày lạiđược bằng lời, bằng dẫn chứng để cụ thể hoá những kiến thức lí thuyếtđã học. Nhưng đó chỉ là mức độ sơ đẳng của việc nắm kiến thức. Mứcđộ cao hơn là khả năng vận dụng được các kiến thức đó một cách có kếtquả vào thực tiễn trong những trường hợp học tập bình thường cũng nhưtrong cuộc sống. Vận dụng vào thực tiễn, mặc dù rất quan trọng, nhưngvẫn chưa phải là dấu hiệu cao nhất của việc nắm kiến thức. Mục đíchcuối cùng của việc nắm kiến thức phải là niềm tin hướng dẫn hành độngvà cách xử sự, kiến thức lúc đó mới trở thành vốn riêng, là kiến thứcthực sự của người học học sinh. Xuất phát từ sự phân tích bản chất tâm lí và giáo dục của quá trìnhnắm kiến thức, người ta có thể phân nó ra các thành phần cơ bản sau: trigiác tài liệu học tập, hiểu tài liệu học tập, ghi nhớ, khái quát hoá, hệthống hoá… Do tính chất toàn vẹn của quá trình nên những thành phần nói trên cóquan hệ chặt chẽ với nhau. Ngay trong thành phần tri giác tài liệu đã cósự hiểu biết sơ bộ, có thể có cả sự ghi nhớ và khái quát hoá bước đầuv.v…Bởi vậy, trong quá trình nắm kiến thức khó có thể phân ra nhữngkhâu riêng biệt. Tuy nhiên, trong mỗi giai đoạn của quá trình nắm kiếnthức có những thành phần trội lên so với các thành phần khác. Ví dụ:thành phần khái quát hoá có trong toàn bộ quá trình nắm kiến thức ở tấtcả các giai đoạn, nhưng việc kháí quát hoá rộng rãi, sâu sắc nhất, gắnliền với việc hệ thôíng hoá là giai đoạn kết thúc. Để nghiên cứu được tính toàn vẹn của quá trình này và làm rõ tính trộicủa các thành phần trong từng giai đoạn, chúng ta cần xét kĩ hơn nhữngđặc điểm của mỗi thành phần một cách riêng biệt. a) Thành phần tri giác Gồm có tri giác cảm tính và tri giác lí tính. Tri giác cảm tính đượchiểu là sự phản ánh các sự vật, hiện tượng, một quá trình cụ thể, trựcquan, tác động vào các giác quan con người trong một thời gian nhấtđịnh còn tri giác lí tính là sự tri giác gián tiếp qua lời nói, chữ viết mô tảcác đối tượng trên. Trong tri giác cảm tính, toàn bộ những thuộc tính của đối tượng địa lí(không kể bản chất hay không bản chất) đều được phản ánh. Ví dụ: Khivào rừng, học sinh trông thấy đủ loại cây cối, lớn, nhỏ, các màu sắc,ngửi thấy mùi, nghe thấy tiếng động v.v...Như vậy học sinh đã có mộtmẫu toàn vẹn hay một biểu tượng về rừng hoặc các biểu tượng địa líkhác nhau, hình thành trên cơ sở tri giác trực tiếp, tạo thành những kinhnghiệm cảm tính của học sinh và là chỗ dựa để tri giác gián tiếp nhữngkiến thức địa lí mới và phát triển tư duy. Những kinh nghiệm cảm tínhnày cũng là những biểu tượng trí nhớ. Trong quá trình dạy học Địa lí, do đặc điểm của các sự vật và hiệntượng địa lí không phải lúc nào cũng tri giác trực tiếp được nên việc sửdụng, khai thác các tranh ảnh, mô hình để hình thành các biểu tượng chohọc sinh là cần thiết. Những biểu tượng này thường kém cụ thể và kémbền vững hơn các biểu tượng được hình thành trong quá trình tri giáctrực tiếp. Đó chính là lí do vì sao trong dạy học Địa lí, giáo viên cần phảithường xuyên kiểm tra độ chính xác cũng như cần phải khắc sâu cácbiểu tượng mờ nhạt, sửa chữa những biểu tượng sai lầm mà học sinh đãcó trước đây. b) Sự hiểu biết (hay hiểu ý nghĩa) là thành phần quan trọng và phứctạp nhất của quá trình nhận thức, nó thể hiện trong việc phát hiện cácmối quan hệ khách quan trong việc thấu suốt ý nghĩa của lời nói hay củacác bài viết, kể cả ý nghĩa của các thuật ngữ địa lí cũng như các tưtưởng, những ý ẩn ở bên trong câu chữ. Trong sự hiểu biết, tư duy liênhệ chặt chẽ với biểu tượng trí nhớ và với trí tưởng tượng sáng tạo. Trong quá trình nhận thức, sự hiểu biết không phải lúc nào cũng diễnra trôi chảy, nhanh chóng. Trong nhiều trường hợp, nó đòi hỏi phải cóthời gian nhất định. Sự diễn biến có thể phân ra ba giai đoạn: giai đoạnbiết vấn đề, giai đoạn hiểu sơ bộ và cuối cùng là giai đoạn có sự đột biến- sự thông hiểu ý nghĩa của vấn đề bỗng nhiên bật ra.Giai đoạn biết vấn đề, trong nhiều trường hợp chỉ mới là biết tên đốitượng, hiểu một số thuật ngữ, biết một vài thuộc tính của đối tượng.Trong giai đoạn này, thông thường học sinh cần đến sự giúp đỡ của giáoviên (xác định tên đối tượng, giải thích một số thuật ngữ cũng như nêulên một số thuộc tính của đối tượng). Giáo viên có thể giảng giải nhưngcũng có thể đặt câu hỏi dẫn dắt học sinh tìm ra lời giải đáp. ...

Tài liệu được xem nhiều: