Danh mục

Quá trình phiên mã

Số trang: 4      Loại file: pdf      Dung lượng: 119.67 KB      Lượt xem: 14      Lượt tải: 0    
Hoai.2512

Phí lưu trữ: miễn phí Tải xuống file đầy đủ (4 trang) 0
Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:

Thông tin tài liệu:

Quá trình phiên mãQuá trình phiên mã (transcription) giúp truyền thông tin di truyền cho việc tổng hợp protein từ gene ở trên ADN trong nhân đi vào bào tương để tham gia vào quá trình tổng hợp protein. Quá trình này được thực hiện thông qua phân tử ARN..Quá trình phiên mã trên ADN ARN cũng là một loại acid nucleic có cấu trúc tương tự ADN với các phân tử đường, nhóm phosphate và nitrogenous base tuy nhiên thay cho đường deoxyribose là đường ribose, và thay cho thymine là uracyl. Uracyl có cấu trúc tương tự thymine...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Quá trình phiên mã Quá trình phiên mãQuá trình phiên mã (transcription) giúp truyền thông tin di truyền cho việctổng hợp protein từ gene ở trên ADN trong nhân đi vào bào tương để thamgia vào quá trình tổng hợp protein. Quá trình này được thực hiện thông quaphân tử ARN. Quá trình phiên mã trên ADNARN cũng là một loại acid nucleic có cấu trúc tương tự ADN với các phân tửđường, nhóm phosphate và nitrogenous base tuy nhiên thay cho đườngdeoxyribose là đường ribose, và thay cho thymine là uracyl. Uracyl có cấutrúc tương tự thymine nên có thể bắt cặp với adenine. Một điểm khác biệtquan trọng nữa là ARN thường chỉ có cấu trúc sợi đơn thay vì sợi kép nhưADN.Quá trình phiên mã tổng hợp nên loại phân tử ARN thông tin (mARN:messenger ARN) từ bản khuôn trên ADN.1. Bắt đầu cho quá trình phiên mã một trong số các enzyme ARN polymerase( ARN polymerase II) sẽ gắn vào một đoạn ADN nằm phía trên gene gọi là vịtrí khởi động (promotor site). Dưới sự xúc tác của enzyme này cấu trúc xoắnkép của một đoạn ADN sẽ được tách đôi và một trong hai mạch của ADN sẽđóng vai trò của bản khuôn để tổng hợp mARN.Vị trí khởi động đóng vai trò quyết định mạch nào sẽ trở thành mạch khuôntrong việc tổng hợp mARN thông qua việc định hướng cho enzyme ARNpolymerase trên ADN. Trên mạch khuôn, ARN polymerase sẽ di chuyển theochiều từ 3’ đến 5’ và cho phép các lắp ghép các ribonucleotide theo nguyêntắc bổ sung theo chiều từ 5’ đến 3’ với các base trên mạch khuôn theo cáchthức tương tự như trong quá trình nhân đôi của ADN nhưng base thymineđược thay bằng uracyl.2. Sau khi quá trình tổng hợp ARN được bắt đầu, đầu 5’ của phân tử ARNđang được tổng hợp sẽ được “bít” lại bằng cách thêm vào một nucleotideguanine đã được thay đổi về mặt hóa học đầu này được gọi là “5’ cap”. 5’ capgiúp ngăn cản sự giáng hóa của ARN trong quá trình tổng hợp và giúp chỉđịnh vị trí bắt đầu quá trình giải mã của mARN.3. Quá trình phiên mã được tiếp tục cho tới khi ARN polymerase đọc tới mộtđoạn nucleotide gọi là đoạn kết thúc (termination sequence). Khi đến vị trínày một đoạn gồm từ 100 đến 200 adenine sẽ được gắn vào đầu 3’ củamARN, cấu trúc này được gọi là đuôi poly - A (poly A-tail). Đuôi poly-Ađược cho là có vai trò giữ cho phân tử này được hằng định và không bị giánghóa khi vào trong bào tương. Khi đến vị trí kết thúc, ARN polymerase tiếptục phiên mã trên chuỗi ADN thêm vài ngàn base tuy nhiên trên mARN đoạnbase thêm phía sau đuôi poly - A sẽ bị mất đi.4. Cuối cùng ARN polymerase sẽ tách khỏi chuỗi ADN, giải phóng phân tửARN với cấu trúc chuỗi đơn, phân tử này được gọi là phân tử mã sao nguyênthủy (primary transcript).Ở một số gene người, trên một gene có thể có nhiều vị trí khởi đầu khác nhaunằm ở các vị trí khác nhau do đó làm gene có thể được bắt đầu phiên mã ởcác vị trí khác nhau dẫn đến việc tổng hợp các phân tử protein ít nhiều khácnhau từ cùng một gene. Điều này cho phép với cùng một gene có thể mã hóacho các protein khác nhau ở các mô khác nhau

Tài liệu được xem nhiều: