Danh mục

Quan điểm giới tính với các triều đại phong kiến 10

Số trang: 8      Loại file: pdf      Dung lượng: 132.81 KB      Lượt xem: 12      Lượt tải: 0    
Hoai.2512

Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:

Thông tin tài liệu:

Quan điểm giới tính với các triều đại phong kiến10Một tên khác của Lí Thường Kiệt cho ta thêm một gợi ý về địa vị đó của hoạn quan. Ông Hoàng Xuân Hãn trong Lí Thường Kiệt, khi đối chiếu với sách Trung Quốc, thấy ông danh tướng của Lí cũng được gọi tên khác là Lí Thượng Cát. Do cách phiên âm qua một thứ chữ không thể sát với âm vận bản xứ nên khó có thể biết tên nào là đúng nhưng ta hãy đoán ra theo cung cách bình thường. Chữ "thượng"/"thường" gần cận, thường được...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Quan điểm giới tính với các triều đại phong kiến 10 Quan điểm giới tính với các triều đại phong kiến 10Một tên khác của Lí Thường Kiệt cho ta thêm một gợi ý về địa vị đó của hoạnquan. Ông Hoàng Xuân Hãn trong Lí Th ường Kiệt, khi đối chiếu với sách TrungQuốc, thấy ông danh tướng của Lí cũng được gọi tên khác là Lí Thượng Cát. Docách phiên âm qua một thứ chữ không thể sát với âm vận bản xứ nên khó có thểbiết tên nào là đúng nhưng ta hãy đoán ra theo cung cách bình thường. Chữthượng/thường gần cận, thường được thấy phiên âm cho chữ thằng. Và nókhông phải lúc nào cũng có ý nghĩa khinh miệt. Nguyễn Ánh gọi tướng Tây Sơn làthằng Sâm, thằng Hưng nhưng bia ruộng đời Trần chỉ chủ đất hẳn là theo tiếnggọi thông tục đương thời, cũng như thằng ngày nay còn có ý nghĩa thân mật làkhác. Với chữ cát thì ta có câu chuyện tranh chấp binh quyền cũng đời Lí về VũCứt, Vũ Đái (chuyện năm 1150)... Ngay chữ Kiệt cũng có thể từ Cứt mà ranhư trong chuyện năm 1189 (Đại Việt Sử Lược, tr. 229): Vua sai quan lớn trongtriều xử vụ kiện Mạc Hiển Tích (chắc vì bị tố cáo tư thông với Thái hậu), quan sợ,bị người đời chê: Ngô Phụ quốc (giúp nước). là lan (lồn), Lê Đô quan là kích(kít/cứt). Vậy thì Thường Kiệt / Thượng Cát có thể là thằng Cứt. Ông HoàngXuân Hãn cho biết Thường Kiệt là tên tự, dẫn bia Nhữ Bá Sĩ đoán tên tự có từlúc xuất thân, hiểu một cách khác, là lúc vào cung, làm hoạn quan. Tự thằng Cứtlà một thứ nickname trong cung gọi ông danh tướng tương lai nọ như ngày naytrong dân gian còn gọi thằng Bò, thằng Cu..., có vẻ còn dễ nghe hơn tên củađám nô Trần Quốc Tuấn là Voi rừng, Chó săn / Cồng cộc.Và như đã nói, cách nhìn của xã hội bên ngoài như thế cộng với sự bất toàn củathân xác không phải không ảnh hưởng đến hành vi của hoạn quan, nhất là khi họ ởvào vị thế có thể toả rộng quyền hành, dù là quyền hành nấp bóng quân vương,chế độ. Người bị thiến Tư Mã Thiên cố bù đắp nỗi nhục mất danh tiết bằng nhữngtrang Sử kí để đời. Sử quan Nguyễn ghi rằng: (Lê Văn Duyệt) năm 14, 15 tuổithường tự than thở rằng sinh ở đời loạn, không dựng cờ trống đại tướng, chépcông danh vào sách sử, không phải là trượng phu. Không hẳn đó là nguyên vănlời ông, nhưng ý đó đúng là của một người muốn vượt khỏi bản thân. Chế độvương triều của Trung Hoa, Đại Việt có rất nhiều dẫn chứng về sự lộng h ành củahoạn quan. Triệu Cao làm việc phế lập trong triều Tần. Hoạn quan lộng hànhnhiều nhất là dưới triều Minh. Theo quân đánh họ Hồ, cũng như trong các cuộchành quân các nơi khác, cứ một ông tổng binh là có một hoạn quan theo kềm giữ:Tổng binh Trương Phụ đi có Nội quan Mã Kì báo cáo hành vi gọi là âm mưu vâycánh nên bị vua Minh rút về (1417), Nội quan Lí Lương đi theo Tổng binh Lí Bân(1426), giữ thành Đông Đô đến phút cuối với Tổng binh V ương Thông. Nội quanSơn Thọ, người được ghi là Thái giám, bắt voi ở Quảng Ninh năm 1418, có mặtdài dài trong cuộc chiến.Sự xung đột giữa nho thần và hoạn quan có lúc đi đến chỗ khôi hài điếng ngườinhư trong câu chuyện xảy ra dưới triều Càn Long đã kể. Tuy nhiên sự khinh miệtcủa nho thần cũng dẫn đến phản ứng của hoạn quan khi thấy những người kia cóthành kiến quá quắt, không hiểu cả lí lẽ bình thường. Trong cuộc tranh chấp về lễnhạc giữa nhóm Nguyễn Trãi và Lương Đăng (1437), Tham nghị Nguyễn Liễu chêhoạn quan không đủ khả năng, không hiểu phép xưa (như của Chu Công), phé pnay (như của nhà Minh), nên làm sai lệch cả. Lương Đăng, với quan điểm ngàynay thì chắc là làm theo tinh thần dân tộc có sáng tạo chế biến, nên nhũn nhặnxin dành quyền quyết định cho vua. Nguyễn Liễu sợ Thái Tông nghe lời, liền phảnkháng trước: Từ xưa đến nay chưa bao giờ có cảnh hoạn quan phá hoại thiên hạnhư thế này. Thế là tranh chấp cá nhân trở thành tập thể. Đinh Thắng từ trongbước ra mắng: Hoạn quan làm gì mà phá hoại thiên hạ? Nếu phá hoại thiên hạ thìchém đầu ngươi trước. Ông văn quan đa sự hay chữ, hú hồn vì thoát khỏi bị chémđầu, nhưng mang chữ thích vào mặt, những ngày tàn nằm ở châu xa hẳn phải ânhận về cơn cường ngạnh bảo vệ Thánh giáo của mình. Cũng nên lưu ý rằng ĐinhThắng là người đã có lòng can ngăn Nguyễn Trãi chớ đem Thị Lộ vào cung làmvây cánh, hành động đã khiến ông thái giám này chết (1442) theo ông Hành khiểnđối thủ trong cuộc tranh cãi trên.Tản mạn thêm về dân số cung đình Ở nước ta, sự bình quyền nam nữ dường như có từ thời khởi thủy. Truyềnthuyết Âu - Lạc vẫn đi dọc lịch sử và dòng chảy hiện thực cũng luôn luôn mởmạch theo khát vọng con người. Ầy vậy nhưng sự lệch pha từ cái gọi là đạotam tòng của văn minh nho giáo bức xạ qua một ngàn năm (Bắc thuộc) đã làmcho phụ nữ Việt Nam phải mang hệ lụy. Chính sự bất bình đẳng và coi phụ nữ nhưcái máy đẻ cũng là một trong những nguyên nhân bùng nổ dân số. Điều này cóthể thấy rõ hơn qua đối sánh nhịp điệu sinh nở ở phương Tây với phương Đông, ởcác nước văn minh với các nước lạc hậu. Điều tất yế ...

Tài liệu được xem nhiều: