Danh mục

Quan hệ Mỹ Việt 1976-2010

Số trang: 21      Loại file: ppt      Dung lượng: 104.50 KB      Lượt xem: 14      Lượt tải: 0    
Jamona

Phí tải xuống: 20,000 VND Tải xuống file đầy đủ (21 trang) 0
Xem trước 3 trang đầu tiên của tài liệu này:

Thông tin tài liệu:

Tháng 3/1977 Tổng thống Jimmy Carter đã cử một phái đoàn do thượng nghị sỹ Woodcock sang Việt Nam tìm hiểu khả năng bình thường hoá quan hệ. Trong năm 1977 đã diễn ra 3 vòng đàm phán tại Paris và 1 vòng tại New York.
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Quan hệ Mỹ Việt 1976-2010QUAN HỆ MỸ-VIỆT 1976-2010 Giai đoạn 1976-1986• Từ 1975-1977 Mỹ phủ quyết Việt Nam ra nhập Liên hiệp quốc.• Tháng 3/1977 Tổng thống Jimmy Carter đã cử một phái đoàn do thượng nghị sỹ Woodcock sang Việt Nam tìm hiểu khả năng bình thường hoá quan hệ. Trong năm 1977 đã diễn ra 3 vòng đàm phán tại Paris và 1 vòng tại New York.• Mỹ nêu kế hoạch gồm 3 điểm: (a) Việt Nam cung cấp thông tin về MIA, (b) Mỹ ủng hộ Việt Nam vào Liên hiệp quốc, đồng thời sẵn sàng thiết lập quan hệ ngoại giao đầy đủ không điều kiện và bắt đầu buôn bán với Việt Nam, (c) Mỹ có thể đóng góp vào việc khôi phục Việt Nam bằng cách thúc đẩy buôn bán, cung cấp trang thiết bị và các hình thức hợp tác khác. Trong khi chưa có quan hệ ngoại giao, đề nghị lập văn phòng liên lạc tại thủ đô hai nước.• Tháng 5 năm 1977 Quốc hội thông qua nhanh chóng với số phiếu áp đảo (266/131) một sửa đổi đạo luật về viện trợ nước ngoài viện trợ, hoặc bất cứ một hình thức chi trả nào với Việt nam”.• Bộ trưởng Ngoại giao Mỹ Cyprus Vance phải tuyên bố Mỹ sẽ không trả Việt nam bất cứ khoản đền bù chiến tranh nào• Tháng 6/1977, Hạ viện Mỹ lại thông qua với đa số áp đảo một sửa đổi khác với đạo luật viện trợ nước ngoài, chính thức bác bỏ lời hứa của Nixon viện trợ 3,25 tỷ USD cho Việt Nam.• Trước áp lực của Quốc hội, Tổng thống Carter phải rút lại lời hứa sẽ viện trợ nhân đạo cho Việt Nam.• Nguyên nhân thất bại: - Chưa có sự nhất trí cao trong nội bộ. Các sáng kiến bình thường hoá được Tổng thống đưa ra. Các lực lượng chống bình thường hoá rất mạnh trong Quốc hội (phản đối viện trợ cho VN…), trong các tổ chức cựu chiến binh và gia đình có thân nhân chết và mất tích trong chiến tranh. - Tính toán chiến lược của Mỹ trong việc quay sang lập quan hệ ngoại giao với Trung Quốc. - Mỹ phản đối Việt Nam đưa quân vào Campuchia. Cũng có ý kiến cho rằng Mỹ chưa thực sự muốn bình thường hoá quan hệ với VN.• Từ năm 1978 đến năm 1986 quan hệ song phương rất căng thẳng.• Mỹ tăng cường bao vây, cấm vận và cô lập VN trên trường quốc tế.• Gắn việc giải quyết MIA/POW và vấn đề VN rút quân khỏi Campuchia với việc bình thường hoá quan hệ song phương.• Cuộc tiếp xúc duy nhất giữa Uỷ viên Hội đồng an ninh quốc gia Mỹ, ông Franklin Childress và Bộ trưởng Nguyễn Cơ Thạch ngày 26/3/1984. Giai đoạn 1986-1995• Đã có chuyển biến trong quan hệ thông qua các hoạt động nhân đạo (POW/MIA). Tháng 1/1986 Trợ lý Ngoại trưởng Paul Wolfowitz, trợ lý Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ Richarch Armitage thăm VN để bàn về MIA.• Đặc phái viên của Tổng thống Mỹ, tướng John Vessey đã dẫn đầu một phái đoàn đến Hanoi ngày 1/8/1987. Việt Nam trao cho phía Mỹ hàng trăm bộ hài cốt được cho là MIA.• Mỹ có bước điều chỉnh chính sách vào ngày 18/7/1990 khi Ngoại trưởng James Baker tuyên bố mở đối thoại trực tiếp với Hanoi. Mỹ thôi ủng hộ chính phủ liên hiệp Campuchia dân chủ ở Liên hiệp quốc. Hai bên chủ yếu tiếp xúc bàn giải quyết vấn đề Campuchia (Phó trợ lý Ngoại trưởng Mỹ, K. Quinn ngày 6/8/1990 và ĐS VN tại Liên hiệp quốc,Trịnh Xuân Lãng; Ngoại trưởng James Baker và Bộ trưởng Ngoại giao Nguyễn Cơ Thạch ngày 29/9/1990).• Ngày 9/4/1991 Trợ lý Ngoại trưởng Mỹ Richard Solomon đưa ra bản “lộ trình” với 4 điểm liên quan đến bình thường hoá quan hệ. Nội dung chủ yếu của bản lộ trình là đề ra từng bước đi cụ thể dẫn đến việc thiết lập quan hệ ngoại giao đầy đủ với Việt Nam. Các bước đi gắn với việc VN chấp thuận giải pháp chính trị ngoại giao tổng thể cho vấn đề Campuchia và những nỗ lực rõ rệt của VN trong việc giải quyết MIA/POW.• Ngày 19/4/1991 tướng John Vessey mở MIA Office tại Hanoi.• Sau khi hiệp định Paris về Campuchia được ký ngày 23/11/1991 thì vấn đề MIA/POW nổi lên thành ưu tiến chính trong tiến trình bình thường hoá.• Ngày 21/11/1991 đàm phán chính thức về bình thường hoá giữa Trợ lý Ngoại trưởng Mỹ, ông Richard Solomon và Thứ trưởng Ngoại giao VN, ông Lê Mai.• Từ tháng 10/1991 đến hết năm 1994, hàng năm có gặp không chính thức cấp Bộ trưởng ngoại giao.• Mỹ bỏ cấm vận ngày 3/2/1994.• Văn phòng liên lạc được mở vào 1/2/1995 ở Washington và Hà Nội 3/2.• Thiết lập quan hệ ngoại giao ngày 11/7/1995.• Tại sao Mỹ muốn bình thường hoá quan hệ? – Vượt qua “Hội chứng Việt Nam,” lấp khoảng cách chia rẽ trong xã hội Mỹ. – Thúc đẩy giải quyết MIA/POW và các vấn đề nhân đạo khác. – Tính toán chiến lược của Mỹ ở châu Á-Thái Bình Dương: vị trí địa-chiến lược của VN, không muốn VN rơi vào vòng tay của Trung Quốc, muốn VN hội nhập vào ASEAN. – Mở rộng buôn bán, đầu tư vào VN. – Thúc đẩy cải cách chính trị, dân chủ, nhân quyền ở VN. Giai đoạn 1995-20101. Chính trị-ngoại giao• Sau khi bình thường hoá mâu thuẫn giữa hai nhánh hành pháp và lập pháp vẫn không ngừng. Ngày 6 và 7/12/1995 trong dự luật về “Dự c ...

Tài liệu được xem nhiều:

Gợi ý tài liệu liên quan: