Quan hệ phân phối và kinh nghiệm của các nước Asean -2
Số trang: 13
Loại file: pdf
Dung lượng: 131.06 KB
Lượt xem: 11
Lượt tải: 0
Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:
Thông tin tài liệu:
người lao động nhận được một khoản thu nhập gắn với kết quả lao động của họ. Về nguyên tắc khoản thu nhập đó phải tương xứng với số lượng và chất lượng lao động mà mỗi người đã cống hiến. Số thu nhập theo lao động đó gọi là tiền lương. Hay nói cách khác tiền lương chính là hình thức thu nhập theo lao động. Với tư cách là một phạm trù kinh tế, tiền lương là sự biểu hiện của bộ phận cơ bánp cần thiết được tạo ra trong các doanh nghiệp, các tổ chức kinh...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Quan hệ phân phối và kinh nghiệm của các nước Asean -2người lao động nhận được một khoản thu nhập gắn với kết quả lao động của họ. Vềnguyên tắc khoản thu nhập đó phải tương xứng với số lượng và chất lượng lao độngmà mỗi người đã cống hiến. Số thu nhập theo lao động đó gọi là tiền lương. Hay nóicách khác tiền lương chính là hình thức thu nhập theo lao động. Với tư cách là một phạm trù kinh tế, tiền lương là sự biểu hiện của bộ phận cơbánp cần thiết được tạo ra trong các doanh nghiệp, các tổ chức kinh tế quốc doanh đểđi vào tiêu dùng cá nhân của người lao động, tương ứng với số lượng và chất lượnglao động mà họ đã hao phí trong quá trình sản xuất kinh doanh. Về cơ cấu tiền lương bao gồm hai phần: phần tiền lương cơ bản và phần tiềnlương bổ sung (tiền thưởng). Trong đó phần tiền lương cơ bản phụ thuộc vào thanglương, bậc lương của mỗi người, phần tiền thưởng phụ thuộc vào kết quả hoạt độngcủa đơn vị. Việc xác định hợp lý và chính xác bậc lương, ngạch lương theo từngngành và theo từng khu vực có tính đ ến trình độ chuyên môn và điều kiện lao độngcó ý nghĩa cực kỳ quan trọng. Điều đó thúc đẩy những ngư ời lao động quan tâm hơnnữa tới việc hoàn thành các công việc được giao. Khi đó họ hoàn toàn phấn khởi vìđã h iểu ra rằng trước hết, họ làm việc cho chính mình và tiếp đến là làm việc cho xãhội. Việc cải cách tiền lương diễn raliên tục bắt đầu từ khi ban hành nghị định235/HDBT tháng 9 năm 1985 đến đầu năm 1993, Nhà nước đã phải điều chỉnh tiềnlương 21 lần.Về cơ chế của chính sách tiền lương .Nhà nước trực tiếp định mức laođộng ,đ ịnh mức tiền lương duyệt quỹ lương ,bảng lương bậc ,bậc lương cụ thể chocácđơn vị sản suất kinh doanh phải thực hiện .Chuyển sangmột cơ chế mới ,trong đótiền lương đối với các đơn vị sản xuất kinh doanh chỉ còn là thông số để tính toán,Nhà nước khống chế lương tối thiểu, khống chế thu nhập tối đa . Trong quá trình chuyển sang nền kinh tế thị trường có sự điều tiết vĩ mô của nhànứơc ,có lĩnh vực chuyển nhanh như xác định tự chủ sản xuất kinh doanh của cácđơn vị kinh tế cơ sở, có lĩnh vực chưa chuyển lập như cơ chế kiểm soát và điều tiếttiền lương ,thu nhập của nhà nước khi các đ ơn vị kinh tế chuyển sang kinh doanh,vv… Chính sách tiền lương theo Nghị định 235/HĐBT chỉ giữ được thời gian ngắn,sau đó tiền lương thực tế bắt đ ầu giảm mạnh và giảm liên tục .Trên thực tế diễn ratình hình tốc độ tăng lương danh nghĩa chậm hơn tốc độ tăng giá .Trước tình hình biến động của giá làm cho tiền lương thực tế ,đời sống của dân cư nóichung ngày càng sa sút ,đã gây ra sự phản ứng của các đối tượng trong xã hội.Cụ thểlà : * ở bộ máy nhà nước các cấp:mặc dù nhà nước trung ương đã có biện pháp chechắn kiểm soát liên tục ,nhưng một số địa phưong tựđịnh lại mức lương tối thiểuvidụ, Long an nâng lên hai lần ….không theo chính sách chung . * ở các đơn vị sản xúât –kinh doanh :dựa vào quyền tự chủ kinh doanh và nhữngsơ hở của cơ chế quản lý đang trong bứơc giao thời , đều tìn mọi cách tăng thu nhậpcho mình .Nhìn xí nghiệp làm ăn thua lỗ nhưng thu nhập của họ vẫn cao * ở các đơn vị hành chính sự nghiệp :phải thực hiện theo nghị định235/HĐBT.Nhưng lại được nhà nứơc cho phép mở ra các hoạt động dịch vụ đờisống đủ loại để tăng thu nhập .To àn bộ những thực tế này đã tạo nên sự chênh lệchvề thu nhập rất lớn ,mà phần lớn không phải sự chênh lệch đó là do tài năng lao độngcủa họtạo ra . * ở ngoài xã hội trong khi mức lương tối thiểu do nhà nước quy định là22.500đ/tháng ,thì ngoài xã hội tiền công lao động trả cho người lao động binhthường là từ 3000-5000đ/công .Trong khi nhà nước quy định lương tối đa bằng 3,5lần lương tối thiểu ,thì ngoài xã hội đang thực hiện băng 7-8 lần . Đặc biệt ở khu vựcnày tiền công đã được tiền tệ hoá hoàn toàn và đ ã tính đén quan hệ cung cầu về laođộng . Nhưng đến Tháng 4-1993 nước ta thực hiện cải cách chính sách tiền lương,ban hành nghị định 25/CP và 26/CP về chế độ tiền lương cho công nhân viên chứckhu vực khu vực hành chính sự nghiệp và sản xuất kinh doanh. Từ đó đến nay mặcdù các thang bảng lương và cơ chế quản ly chưa thay đổi, nhưng mức lương tối thiểucũng thường xuyên thay đổi từ 1/4/1993 là 120.000 đ; 1/10/1997 là 144.000 đ;1/1/2000 là 180.000đ đến 1/1/2001 là 210.000 đ; đến 1/1/2003 là 290.000 đ. Qua thờigian áp dụng chính sách lương mới vào cuộc sống thì việc phân phối đã công bằnghơn, tạo động lực thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, nâng cao năng suất lao động và hiệuquả công tác.Qua những số liệu ở trên cho ta thấy thực trạng về vấn đề tiền lương ở nước ta trongth ời gian qua chưa phù hợp với nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần đ ang hoạtđộng trong một thị trường thống nhất .Tiền lương đó chưa thực sự là thước đo giá trị–lao động ,chưa đảm bảo tái sản xuất giản đơn và mở rộng sức lao động khôngngừng ,chưa trở thành nguồn thu nhập chủ yếu của ngưòi lao động làm công ănlươngTiền lương vừa m ...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Quan hệ phân phối và kinh nghiệm của các nước Asean -2người lao động nhận được một khoản thu nhập gắn với kết quả lao động của họ. Vềnguyên tắc khoản thu nhập đó phải tương xứng với số lượng và chất lượng lao độngmà mỗi người đã cống hiến. Số thu nhập theo lao động đó gọi là tiền lương. Hay nóicách khác tiền lương chính là hình thức thu nhập theo lao động. Với tư cách là một phạm trù kinh tế, tiền lương là sự biểu hiện của bộ phận cơbánp cần thiết được tạo ra trong các doanh nghiệp, các tổ chức kinh tế quốc doanh đểđi vào tiêu dùng cá nhân của người lao động, tương ứng với số lượng và chất lượnglao động mà họ đã hao phí trong quá trình sản xuất kinh doanh. Về cơ cấu tiền lương bao gồm hai phần: phần tiền lương cơ bản và phần tiềnlương bổ sung (tiền thưởng). Trong đó phần tiền lương cơ bản phụ thuộc vào thanglương, bậc lương của mỗi người, phần tiền thưởng phụ thuộc vào kết quả hoạt độngcủa đơn vị. Việc xác định hợp lý và chính xác bậc lương, ngạch lương theo từngngành và theo từng khu vực có tính đ ến trình độ chuyên môn và điều kiện lao độngcó ý nghĩa cực kỳ quan trọng. Điều đó thúc đẩy những ngư ời lao động quan tâm hơnnữa tới việc hoàn thành các công việc được giao. Khi đó họ hoàn toàn phấn khởi vìđã h iểu ra rằng trước hết, họ làm việc cho chính mình và tiếp đến là làm việc cho xãhội. Việc cải cách tiền lương diễn raliên tục bắt đầu từ khi ban hành nghị định235/HDBT tháng 9 năm 1985 đến đầu năm 1993, Nhà nước đã phải điều chỉnh tiềnlương 21 lần.Về cơ chế của chính sách tiền lương .Nhà nước trực tiếp định mức laođộng ,đ ịnh mức tiền lương duyệt quỹ lương ,bảng lương bậc ,bậc lương cụ thể chocácđơn vị sản suất kinh doanh phải thực hiện .Chuyển sangmột cơ chế mới ,trong đótiền lương đối với các đơn vị sản xuất kinh doanh chỉ còn là thông số để tính toán,Nhà nước khống chế lương tối thiểu, khống chế thu nhập tối đa . Trong quá trình chuyển sang nền kinh tế thị trường có sự điều tiết vĩ mô của nhànứơc ,có lĩnh vực chuyển nhanh như xác định tự chủ sản xuất kinh doanh của cácđơn vị kinh tế cơ sở, có lĩnh vực chưa chuyển lập như cơ chế kiểm soát và điều tiếttiền lương ,thu nhập của nhà nước khi các đ ơn vị kinh tế chuyển sang kinh doanh,vv… Chính sách tiền lương theo Nghị định 235/HĐBT chỉ giữ được thời gian ngắn,sau đó tiền lương thực tế bắt đ ầu giảm mạnh và giảm liên tục .Trên thực tế diễn ratình hình tốc độ tăng lương danh nghĩa chậm hơn tốc độ tăng giá .Trước tình hình biến động của giá làm cho tiền lương thực tế ,đời sống của dân cư nóichung ngày càng sa sút ,đã gây ra sự phản ứng của các đối tượng trong xã hội.Cụ thểlà : * ở bộ máy nhà nước các cấp:mặc dù nhà nước trung ương đã có biện pháp chechắn kiểm soát liên tục ,nhưng một số địa phưong tựđịnh lại mức lương tối thiểuvidụ, Long an nâng lên hai lần ….không theo chính sách chung . * ở các đơn vị sản xúât –kinh doanh :dựa vào quyền tự chủ kinh doanh và nhữngsơ hở của cơ chế quản lý đang trong bứơc giao thời , đều tìn mọi cách tăng thu nhậpcho mình .Nhìn xí nghiệp làm ăn thua lỗ nhưng thu nhập của họ vẫn cao * ở các đơn vị hành chính sự nghiệp :phải thực hiện theo nghị định235/HĐBT.Nhưng lại được nhà nứơc cho phép mở ra các hoạt động dịch vụ đờisống đủ loại để tăng thu nhập .To àn bộ những thực tế này đã tạo nên sự chênh lệchvề thu nhập rất lớn ,mà phần lớn không phải sự chênh lệch đó là do tài năng lao độngcủa họtạo ra . * ở ngoài xã hội trong khi mức lương tối thiểu do nhà nước quy định là22.500đ/tháng ,thì ngoài xã hội tiền công lao động trả cho người lao động binhthường là từ 3000-5000đ/công .Trong khi nhà nước quy định lương tối đa bằng 3,5lần lương tối thiểu ,thì ngoài xã hội đang thực hiện băng 7-8 lần . Đặc biệt ở khu vựcnày tiền công đã được tiền tệ hoá hoàn toàn và đ ã tính đén quan hệ cung cầu về laođộng . Nhưng đến Tháng 4-1993 nước ta thực hiện cải cách chính sách tiền lương,ban hành nghị định 25/CP và 26/CP về chế độ tiền lương cho công nhân viên chứckhu vực khu vực hành chính sự nghiệp và sản xuất kinh doanh. Từ đó đến nay mặcdù các thang bảng lương và cơ chế quản ly chưa thay đổi, nhưng mức lương tối thiểucũng thường xuyên thay đổi từ 1/4/1993 là 120.000 đ; 1/10/1997 là 144.000 đ;1/1/2000 là 180.000đ đến 1/1/2001 là 210.000 đ; đến 1/1/2003 là 290.000 đ. Qua thờigian áp dụng chính sách lương mới vào cuộc sống thì việc phân phối đã công bằnghơn, tạo động lực thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, nâng cao năng suất lao động và hiệuquả công tác.Qua những số liệu ở trên cho ta thấy thực trạng về vấn đề tiền lương ở nước ta trongth ời gian qua chưa phù hợp với nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần đ ang hoạtđộng trong một thị trường thống nhất .Tiền lương đó chưa thực sự là thước đo giá trị–lao động ,chưa đảm bảo tái sản xuất giản đơn và mở rộng sức lao động khôngngừng ,chưa trở thành nguồn thu nhập chủ yếu của ngưòi lao động làm công ănlươngTiền lương vừa m ...
Tìm kiếm theo từ khóa liên quan:
luận văn kinh tế tiểu luận chính trị cách trình bày luận văn mẫu luận văn bộ luận văn đại hayGợi ý tài liệu liên quan:
-
30 trang 239 0 0
-
Đề tài Thực trạng và nhưng giải pháp cho công tác quy hoạch sử dụng đất'
35 trang 208 0 0 -
Tiểu luận kinh tế chính trị: Quy luật giá trị cơ chế thị trường và nền kinh tế thị trường
16 trang 198 0 0 -
Bàn về nghiệp vụ bảo hiểm nhân thọ thế giới và các loại hình hiện nay ở Việt Nam -4
8 trang 196 0 0 -
Luận văn tốt nghiệp: Thương mại điện tử trong hoạt động ngoại thương VN-thực trạng và giải pháp
37 trang 191 0 0 -
Giáo trình chứng khoán cổ phiếu và thị trường (Hà Hưng Quốc Ph. D.) - 4
41 trang 190 0 0 -
Đề tài: Tìm hiểu về thủ tục hải quan điện tử ở Việt Nam
47 trang 171 0 0 -
Khóa luận tốt nghiệp: Môi trường đầu tư bất động sản Việt Nam: thực trạng và giải pháp
83 trang 169 0 0 -
LUẬN VĂN: Thực trạng và nhưng giải pháp cho công tác quy hoạch sử dụng đất
29 trang 164 0 0 -
29 trang 158 0 0