Quản lý các tập đoàn kinh tế nhà nước thế nào?
Số trang: 9
Loại file: pdf
Dung lượng: 132.90 KB
Lượt xem: 17
Lượt tải: 0
Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:
Thông tin tài liệu:
Trong vòng năm năm, kể từ ngày đề án thí điểm tập đoàn kinh tế nhà nước đầu tiên được Thủ tướng phê duyệt, Việt Nam đã nhanh chóng cho ra đời được 12 tập đoàn. Các doanh nghiệp này đang nắm lượng tài sản khổng lồ của quốc gia và đóng vai trò nòng cốt trong việc thực hiện một số chính sách lớn về phát triển
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Quản lý các tập đoàn kinh tế nhà nước thế nào? Quản lý các tập đoàn kinh tế nhà nước thế nào? Trong vòng năm năm, kể từ ngày đề án thí điểm tập đoàn kinh tế nhà nước đầu tiên được Thủ tướng phê duyệt, Việt Nam đã nhanh chóng cho ra đời được 12 tập đoàn. Các doanh nghiệp này đang nắm lượng tài sản khổng lồ của quốc gia và đóng vai trò nòng cốt trong việc thực hiện một số chính sách lớn về phát triển. Do vậy, hiệu quả hoạt động của các tập đoàn kinh tế nhà nước có ảnh hưởng lớn đến sức khỏe của cả nền kinh tế nói chung. Thế mà mô hình tổ chức, cơ cấu quản lý và quản trị các tập đoàn lại đang là vấn đề lớn cần nghiên cứu hoàn thiện. Việc tập đoàn Vinashin mất khả năng trả nợ và đứng bên bờ vực phá sản, buộc Chính phủ phải cơ cấu lại, là tiếng chuông cảnh báo về những bất cập trong tổ chức, quản lý hoạt động của các tập đoàn kinh tế nhà nước. Các cuộc hội thảo cùng với phân tích của nhiều chuyên gia kinh tế gần đây cho thấy, các tập đoàn đang hoạt động trong một điều kiện pháp lý chưa hoàn thiện. Tiến sĩ Lê Đăng Doanh khẳng định: “Việc tổ chức các tập đoàn kinh tế nhà nước là quyết định có tính chất thí điểm và cho đến nay vẫn chưa được tổng kết, đánh giá. Đây là sơ hở lớn. Chính vì thí điểm, nên khung pháp lý không chặt chẽ”. Sự thiếu hoàn thiện có thể được nhận diện trên nhiều khía cạnh, từ mục tiêu thành lập, ngành nghề kinh doanh, cho đến cơ cấu tổ chức, quản lý điều hành trong tập đoàn, vấn đề quản lý cũng như các quy định về quản lý đầu tư trong tập đoàn kinh tế nhà nước. Quả đấm thép? Tập đoàn kinh tế nhà nước được thành lập nhằm năm mục tiêu, trong đó có hai mục tiêu liên quan đến ngành nghề kinh doanh, gồm: tập trung đầu tư và huy động nguồn lực hình thành những nhóm công ty quy mô lớn trong các ngành, lĩnh vực then chốt; giữ vai trò bảo đảm các cân đối lớn trong nền kinh tế, ứng dụng công nghệ cao, tạo động lực phát triển cho các ngành, lĩnh vực khác và toàn bộ nền kinh tế. Ở đây, có hai vấn đề cần lưu ý. Thứ nhất, lĩnh vực nào là lĩnh vực then chốt. Thứ hai, bảo đảm các cân đối lớn của nền kinh tế có phải là hoạt động công ích không? Và liệu các tập đoàn có giữ được vai trò bảo đảm các cân đối lớn của nền kinh tế và bảo đảm trên cơ sở nào? Khi thực hiện nhiệm vụ “bảo đảm” không theo nguyên tắc thị trường thì những chi phí phát sinh sẽ được hạch toán để bù đắp thế nào? Tiến sĩ Trần Xuân Giá, nguyên Trưởng ban Nghiên cứu đổi mới doanh nghiệp nhà nước của Chính phủ, nói rằng tất cả các văn bản có liên quan đều không có định nghĩa những lĩnh vực nào là then chốt mà tập đoàn cần phát triển và những cân đối lớn của nền kinh tế cần được đảm bảo là gì, mà chỉ có những câu chung chung như hình thành “quả đấm thép”, tạo sức cạnh tranh cho nền kinh tế quốc gia. Ông nói: “Nhà nước gán cho các tập đoàn những nhiệm vụ tuyệt vời, nhưng thực tế nó không làm được”. Ông chứng minh: “Trong cuộc khủng hoảng vừa qua, lẽ ra các tập đoàn, tổng công ty nhà nước phải đóng vai trò xung kích chống lại những tác động tiêu cực đối với nền kinh tế, nhưng lại tăng trưởng chậm hơn các thành phần kinh tế khác”. Một ví dụ khác liên quan đến tập đoàn Điện lực (EVN). Doanh nghiệp này nắm vai trò bảo đảm nguồn cung điện cho nhu cầu phát triển của nền kinh tế. Trớ trêu thay, chính sự độc quyền trong khâu truyền tải, phân phối của EVN lại trở thành lực cản lớn đối với sự phát triển nguồn cung cấp điện cho quốc gia. Phát biểu trong một cuộc hội thảo gần đây, ông Trương Đình Tuyển, nguyên Bộ trưởng Bộ Thương mại, cho rằng việc thành lập tập đoàn trong các lĩnh vực xây dựng, dệt may, trồng và khai thác chế biến cao su, đầu tư bất động sản không thực sự cần thiết. Vì những ngành nghề kinh doanh vừa nêu đã có rất nhiều doanh nghiệp tư nhân đang kinh doanh khá hiệu quả. Những ngành này cũng không phải là những ngành có vai trò then chốt. Tiến sĩ Trần Xuân Giá cho rằng, chính vì chưa nghiên cứu, đánh giá kết quả thí điểm mà đã cho phát triển đại trà tập đoàn kinh tế nhà nước, là nguyên nhân dẫn đến xuất hiện tập đoàn cả ở những lĩnh vực không cần thiết. “Lẽ ra phải tổng kết, phân tích và làm rõ những lĩnh vực nào cần có tập đoàn kinh tế nhà nước, lĩnh vực nào không”, ông nhấn mạnh. Nhiều chủ nên trở thành vô chủ Các tập đoàn kinh tế nhà nước về bản chất là thuộc sở hữu toàn dân. Chính phủ là người đại diện thực hiện quyền sở hữu toàn dân đó. Chính phủ không thể trực tiếp thực hiện quyền của chủ sở hữu nên Chính phủ cử ra hội đồng quản trị làm đại diện. Ở đây xuất hiện một số vấn đề. Trước hết là mối quan hệ giữa chủ sở hữu và đại diện chủ sở hữu. Hiện không có quy định nào thể hiện sự giám sát tập thể của chủ sở hữu nhà nước đối với đại diện chủ sở hữu. Ông Giá cho biết, tình trạng hiện nay là tập đoàn có rất nhiều chủ, nhưng thực tế các ông chủ này chỉ quản lý các tập đoàn về mặt hành chính, trong đó mỗi bộ được giao làm một mảng. Không có ông chủ sở hữu đích thực. Chính vì có quá nhiều chủ nên trở thành vô chủ. Bên cạnh đó, cũng không có cơ chế giám sát của toàn dân trong quá trìn ...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Quản lý các tập đoàn kinh tế nhà nước thế nào? Quản lý các tập đoàn kinh tế nhà nước thế nào? Trong vòng năm năm, kể từ ngày đề án thí điểm tập đoàn kinh tế nhà nước đầu tiên được Thủ tướng phê duyệt, Việt Nam đã nhanh chóng cho ra đời được 12 tập đoàn. Các doanh nghiệp này đang nắm lượng tài sản khổng lồ của quốc gia và đóng vai trò nòng cốt trong việc thực hiện một số chính sách lớn về phát triển. Do vậy, hiệu quả hoạt động của các tập đoàn kinh tế nhà nước có ảnh hưởng lớn đến sức khỏe của cả nền kinh tế nói chung. Thế mà mô hình tổ chức, cơ cấu quản lý và quản trị các tập đoàn lại đang là vấn đề lớn cần nghiên cứu hoàn thiện. Việc tập đoàn Vinashin mất khả năng trả nợ và đứng bên bờ vực phá sản, buộc Chính phủ phải cơ cấu lại, là tiếng chuông cảnh báo về những bất cập trong tổ chức, quản lý hoạt động của các tập đoàn kinh tế nhà nước. Các cuộc hội thảo cùng với phân tích của nhiều chuyên gia kinh tế gần đây cho thấy, các tập đoàn đang hoạt động trong một điều kiện pháp lý chưa hoàn thiện. Tiến sĩ Lê Đăng Doanh khẳng định: “Việc tổ chức các tập đoàn kinh tế nhà nước là quyết định có tính chất thí điểm và cho đến nay vẫn chưa được tổng kết, đánh giá. Đây là sơ hở lớn. Chính vì thí điểm, nên khung pháp lý không chặt chẽ”. Sự thiếu hoàn thiện có thể được nhận diện trên nhiều khía cạnh, từ mục tiêu thành lập, ngành nghề kinh doanh, cho đến cơ cấu tổ chức, quản lý điều hành trong tập đoàn, vấn đề quản lý cũng như các quy định về quản lý đầu tư trong tập đoàn kinh tế nhà nước. Quả đấm thép? Tập đoàn kinh tế nhà nước được thành lập nhằm năm mục tiêu, trong đó có hai mục tiêu liên quan đến ngành nghề kinh doanh, gồm: tập trung đầu tư và huy động nguồn lực hình thành những nhóm công ty quy mô lớn trong các ngành, lĩnh vực then chốt; giữ vai trò bảo đảm các cân đối lớn trong nền kinh tế, ứng dụng công nghệ cao, tạo động lực phát triển cho các ngành, lĩnh vực khác và toàn bộ nền kinh tế. Ở đây, có hai vấn đề cần lưu ý. Thứ nhất, lĩnh vực nào là lĩnh vực then chốt. Thứ hai, bảo đảm các cân đối lớn của nền kinh tế có phải là hoạt động công ích không? Và liệu các tập đoàn có giữ được vai trò bảo đảm các cân đối lớn của nền kinh tế và bảo đảm trên cơ sở nào? Khi thực hiện nhiệm vụ “bảo đảm” không theo nguyên tắc thị trường thì những chi phí phát sinh sẽ được hạch toán để bù đắp thế nào? Tiến sĩ Trần Xuân Giá, nguyên Trưởng ban Nghiên cứu đổi mới doanh nghiệp nhà nước của Chính phủ, nói rằng tất cả các văn bản có liên quan đều không có định nghĩa những lĩnh vực nào là then chốt mà tập đoàn cần phát triển và những cân đối lớn của nền kinh tế cần được đảm bảo là gì, mà chỉ có những câu chung chung như hình thành “quả đấm thép”, tạo sức cạnh tranh cho nền kinh tế quốc gia. Ông nói: “Nhà nước gán cho các tập đoàn những nhiệm vụ tuyệt vời, nhưng thực tế nó không làm được”. Ông chứng minh: “Trong cuộc khủng hoảng vừa qua, lẽ ra các tập đoàn, tổng công ty nhà nước phải đóng vai trò xung kích chống lại những tác động tiêu cực đối với nền kinh tế, nhưng lại tăng trưởng chậm hơn các thành phần kinh tế khác”. Một ví dụ khác liên quan đến tập đoàn Điện lực (EVN). Doanh nghiệp này nắm vai trò bảo đảm nguồn cung điện cho nhu cầu phát triển của nền kinh tế. Trớ trêu thay, chính sự độc quyền trong khâu truyền tải, phân phối của EVN lại trở thành lực cản lớn đối với sự phát triển nguồn cung cấp điện cho quốc gia. Phát biểu trong một cuộc hội thảo gần đây, ông Trương Đình Tuyển, nguyên Bộ trưởng Bộ Thương mại, cho rằng việc thành lập tập đoàn trong các lĩnh vực xây dựng, dệt may, trồng và khai thác chế biến cao su, đầu tư bất động sản không thực sự cần thiết. Vì những ngành nghề kinh doanh vừa nêu đã có rất nhiều doanh nghiệp tư nhân đang kinh doanh khá hiệu quả. Những ngành này cũng không phải là những ngành có vai trò then chốt. Tiến sĩ Trần Xuân Giá cho rằng, chính vì chưa nghiên cứu, đánh giá kết quả thí điểm mà đã cho phát triển đại trà tập đoàn kinh tế nhà nước, là nguyên nhân dẫn đến xuất hiện tập đoàn cả ở những lĩnh vực không cần thiết. “Lẽ ra phải tổng kết, phân tích và làm rõ những lĩnh vực nào cần có tập đoàn kinh tế nhà nước, lĩnh vực nào không”, ông nhấn mạnh. Nhiều chủ nên trở thành vô chủ Các tập đoàn kinh tế nhà nước về bản chất là thuộc sở hữu toàn dân. Chính phủ là người đại diện thực hiện quyền sở hữu toàn dân đó. Chính phủ không thể trực tiếp thực hiện quyền của chủ sở hữu nên Chính phủ cử ra hội đồng quản trị làm đại diện. Ở đây xuất hiện một số vấn đề. Trước hết là mối quan hệ giữa chủ sở hữu và đại diện chủ sở hữu. Hiện không có quy định nào thể hiện sự giám sát tập thể của chủ sở hữu nhà nước đối với đại diện chủ sở hữu. Ông Giá cho biết, tình trạng hiện nay là tập đoàn có rất nhiều chủ, nhưng thực tế các ông chủ này chỉ quản lý các tập đoàn về mặt hành chính, trong đó mỗi bộ được giao làm một mảng. Không có ông chủ sở hữu đích thực. Chính vì có quá nhiều chủ nên trở thành vô chủ. Bên cạnh đó, cũng không có cơ chế giám sát của toàn dân trong quá trìn ...
Tìm kiếm theo từ khóa liên quan:
quản lý kinh doanh quản lý tài chính quản lý nhân sự quản lý thời gian nghệ thuật quản lýGợi ý tài liệu liên quan:
-
Đề tài nghiên cứu khoa học: Kỹ năng quản lý thời gian của sinh viên trường Đại học Nội vụ Hà Nội
80 trang 1527 4 0 -
Giáo trình Quản lý dự án phần mềm: Phần 2 - Phạm Ngọc Hùng
216 trang 400 0 0 -
2 trang 388 9 0
-
26 trang 322 2 0
-
Sử dụng vốn đầu tư hiệu quả: Nhìn từ Hàn Quốc
8 trang 318 0 0 -
Làm thế nào để trở thành quản trị mạng
5 trang 268 0 0 -
2 trang 266 0 0
-
NHỮNG KHÓ KHĂN TRONG QUÁ TRÌNH ĐÁNH GIÁ CÔNG VIỆC
3 trang 212 0 0 -
Tiểu luận: Phân tích thiết kế hệ thống quản lý nhân sự và quản lý tiền lương
26 trang 193 0 0 -
Đồ án tốt nghiệp - Phân tích thiết kế hệ thống - Phân tích thiết kế hệ thống siêu thị
140 trang 181 0 0