Quan niệm về con người trong nghệ thuật tuy không đồng nhất với con người trong triết học nhưng lại có những ảnh hưởng nhất định. Vì thế, tính ổn định về nghệ thuật luôn chịu sự quy định của các quan điểm chính trị, xã hội và tư tưởng triết học đương thời. Mời các bạn cùng tham khảo.
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Quan niệm con người trong thơ Thiền của Trần Nhân Tông
TẠP CHÍ KHOA HỌC, Đại học Huế, Số 26, 2005
QUAN NIỆM CON NGƯỜI TRONG THƠ THIỀN
CỦA TRẦN NHÂN TÔNG
Hà Ngọc Hòa
Trường Đại học Khoa học, Đại học Huế
1. Con người đối tượng chủ yếu của sáng tạo văn học, bao giờ cũng được
người nghệ sĩ nhìn nhận, khai thác bằng quan niệm nghệ thuật. Quan niệm về con
người trong nghệ thuật tuy không đồng nhất với con người trong triết học nhưng lại
có những ảnh hưởng nhất định. Vì thế, tính ổn định về nghệ thuật luôn chịu sự quy
định của các quan điểm chính trị, xã hội và tư tưởng triết học đương thời.
Nhìn lại tiến trình phát triển của lịch sử văn học trung đại Việt Nam 10 thế
kỷ, chúng ta dễ dàng nhận ra sự khác biệt của văn học Lý Trần trong dòng chảy
chung đó. Khi chưa phải chịu sự ràng buộc hà khắc của Nho giáo, khi chưa có những
“đường hào ngăn cách” (Đặng Thai Mai) giữa cung điện của nhà vua và làng mạc
của người dân, con người sống vui tươi, hạnh phúc”Khi vua cày ruộng, quan trồng
lúa. Công chúa trồng dâu và dệt tơ” (Vũ Quần Phương) với bổn phận của mình
trong buổi đầu giữ nước. Bàng bạc và ấm áp tình người, tư tưởng Phật giáo bao trùm
lên cuộc sống, và chi phối đến tư tưởng, hành động của con người trong giai đoạn
này, mặc dù văn học Phật giáo “Không hình thành một dòng văn thơ riêng biệt, dù
trong một giai đoạn hay suốt chiều dài lịch sử văn học nước nhà” (1). Tất nhiên, việc
tiếp nhận một lý tưởng không đơn giản chỉ phụ thuộc vào nội dung lý thuyết của lý
tưởng đó, mà chủ yếu phụ thuộc vào tâm lý xã hội và người tiếp nhận. Thực tế lịch
sử qua nghìn năm Bắc thuộc và những tham vọng, tranh giành quyền lực của các
triều đại Đinh, Tiền Lê đã củng cố đời sống tâm linh thiên về Phật giáo trong nhân
dân và tầng lớp quý tộc. Người dân tìm đến với Phật giáo bằng niềm tin diệt khổ,
bằng khát vọng được bình yên, hạnh phúc ở đời; còn những người trí thức thông qua
Phật giáo để tìm đến sự tĩnh lặng, vô ưu và thanh thản tâm hồn trước từng cơn giông
bão của cuộc đời. Điều ấy lý giải được vì sao nhiều nhà sư nhà thơ là nhà yêu
nước, là tướng lĩnh cầm quân giết giặc nhưng tâm hồn lại hướng về Phật giáo theo
Thiền Tông. Con người trong văn học giai đoạn này vừa yêu nước, thượng võ, lại
vừa cảm nhận sâu sắc về sự tàn phai, biến ảo của cuộc đời:
55
“Thân như tường bích dĩ đồi thì
Cử thể thông thông thục bất bi?”
(Thân xác con người ta thường như tường vách lúc hư nát,
Tất cả người đời đều vội vàng, ai mà không buồn)
(Viên Chiếu Tâm không)
2. Thơ Thiền còn được gọi là Kệ. Theo tiếng Phạn, Kệ là “gà thà”, có nghĩa
là tụng, ngợi, ca, tán dùng để khẳng định giáo lý, kinh nghiệm, truyền tâm pháp cho
đệ tử. Hiện nay, các nhà nghiên cứu gọi chung thơ nhà chùa là thơ Thiền. Nhưng
quan niệm về thơ Thiền lại khác nhau. Theo Giáo sư Trần Đình Sử, thơ Thiền phải
có ba tính chất: truyền đạt được cách cảm nhận thế giới của Thiền học; bộc lộ
được vẻ đẹp của thế giới, của tâm hồn và là thơ của tầng lớp tăng lữ cao cấp, tầng
lớp trí thức đặc biệt, không giống với tình cảm Phật giáo dân gian (2). Theo nhà
nghiên cứu Nguyễn Duy Hinh, thơ Thiền là hình thức chịu ảnh hưởng Phật giáo, còn
nội dung bàn về sinh, tử, vô, hữu, tâm, phật…và mang những rung động thơ ca có
tính trần thế (3). Dẫu có nhiều quan niệm khác nhau về thơ Thiền, nhưng tất cả đều
giống nhau ở chỗ cho rằng mọi quan niệm nhận thức thơ Thiền đều xuất phát từ tiêu
chí nội dung phản ánh của thơ Thiền “Từ việc biểu đạt một nội dung xác định, thơ
Thiền lựa chọn cho mình những đề tài, chủ đề phản ánh riêng. Nó không đề cập tới
cuộc sống nói chung mà đề cập tới một phạm vi nhất định của cuộc sống có ảnh
hưởng Phật giáo. Nó không bộc lộ thái độ của tất cả mọi người nói chung trước
cuộc sống mà là thái độ của những con người ảnh hưởng tư tưởng Phật giáo với
cuộc sống hiện thực”(4).
Là thể loại phản ánh sâu sắc và tập trung nhất đời sống tâm hồn con người,
thơ Thiền đời Lý đã thể hiện sự hòa hợp giữa người tu hành và cuộc sống trần thế,
sôi động trong tinh thần “hòa quang đồng trần”. Dẫu là nhà vua, là vị tướng, là nhà
sư, thì trong những lời thơ bay bổng đó, người ta vẫn thấy được sự hiện diện của
những con người trí tuệ, nhân hậu, đem hết tài đức của mình để đánh giặc, giữ
nước, và để phụng sự Phật giáo.
Gắn liền với các trạng thái tâm hồn con người, thơ Thiền đời Trần tiếp tục
mở rộng biên độ tới các lĩnh vực khác của cuộc sống, khi vẫn mang trong mình tư
tưởng “hòa quang đồng tr ...