Thông tin tài liệu:
Quản trị nhãn hiệu: Lịch sử & tương lai
Nền kinh tế toàn cầu đang chứng kiến sự bùng phát của các nhãn hiệu sản phẩm và dịch vụ mới. Quá trình này được củng cố bởi sự tăng trưởng phi mã của Intemet và các phương tiện truyền thông tiên tiến. Trong khi đó, các ngành kinh doanh truyền thống cũng đang chuyển mình hoà lẫn vào nhau, xoá dần các ranh giới lâu nay và tạo ra những đối thủ cạnh tranh hoàn toàn mới. Trong quá trình này, không có gì ngạc nhiên khi các Công ty ngày...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Quản trị nhãn hiệu
Quản trị nhãn hiệu: Lịch sử & tương lai
Nền kinh tế toàn cầu đang chứng kiến sự bùng phát của các nhãn
hiệu sản phẩm và dịch vụ mới. Quá trình này được củng cố bởi sự
tăng trưởng phi mã của Intemet và các phương tiện truyền thông
tiên tiến. Trong khi đó, các ngành kinh doanh truyền thống cũng
đang chuyển mình hoà lẫn vào nhau, xoá dần các ranh giới lâu nay
và tạo ra những đối thủ cạnh tranh hoàn toàn mới. Trong quá trình
này, không có gì ngạc nhiên khi các Công ty ngày càng thấy khó để khác biệt hoá chính
mình, không chỉ đối với khách hàng mà còn đối với các nhà đầu tư và những nhân viên
tiềm năng.
Nhãn hiệu là gì?
Thuật ngữ tiếng Anh “brand'(nhãn hiệu) bắt nguồn từ chữ 'burning' (đốt cháy), một từ thông
dụng theo nghĩa kinh doanh có nghĩa là đốt cháy lên da hoặc lông của các con thú nuôi, gỗ,
kim loại đúc hoặc các hàng hóa khác thời xưa để in ký hiệu riêng lên đó. Đến thế kỷ XIX, theo
từ điển Oxford, từ này đã mang nghĩa là dấu hiệu của nhãn hiệu thương mại. Vào giữa thế kỷ
XX, từ ''branơ' phát triển rộng ra để bao gồm cả những hình ảnh về một sản phẩm được ghi
lại trong tâm trí người tiêu dùng tiềm năng hoặc cụ thể hơn là quan niệm về một người hay vật
nào đó.
Ngày nay, 'brand' được hiểu là tổng hòa tất cả các thông tin về một sản phẩm, dịch vụ hay
một Công ty được truyền đạt tới đối tượng mục tiêu bằng tên gọi hoặc các dấu hiệu nhận biết
khác, như logo hoặc hình tượng. Nhãn hiệu không phải là cái tên: một tên Công ty nào đó mà
không truyền đạt tới đối tượng mục tiêu thông điệp hay thuộc tính gì thì không thể gọi là một
nhãn hiệu. Các thuộc tính của nhãn hiệu tồn tại trong mắt của người sở hữu và phản ánh sự
tích luỹ các thông điệp truyền thông mà đối tượng mục tiêu đã nhận được liên quan đến sản
phẩm, dịch vụ hay Công ty và những “kinh nghiệm' mà người tiêu dùng đó đã trải qua với sản
phẩm, dịch vụ hay Công ty đó.
Lịch sử của quản trị nhãn hiệu
Nhãn hiệu đã xuất hiện từ rất lâu trong lịch sử. Những người cổ đại thời kỳ đồ đá vẫn thường
trao đổi với nhau những vũ khí được thiết kế khác biệt với vẻ ngoài đem lại cảm tưởng sẽ giúp
họ thành công hơn trong săn bắn. Những người đóng tàu Viking cũng có những 'nhãn hiệu” tàu
biển khác nhau. Về sau này, khi loài người biết đúc kim loại, nhiều người đã đúc lên sản phẩm
tên họ của mình như một chứng tích khẳng định chất lượng của sản phẩm.
Trên thực tế, định nhãn (branding), hay việc sử dụng các biểu tượng để truyền đạt các thông
tin về một sản phẩm hay dịch vụ có thể được coi là một hoạt động chỉ riêng gặp ở con người.
Đây cũng là nền tảng của thương mại: nếu không có thông tin về danh tiếng của một người
sản xuất hay người bán, hoạt động thương mại hẳn nhiên sẽ bị ngừng trệ. Tuy nhiên, quyền
lực thực sự của các nhãn hiệu lại có từ khi dấu hiệu này được truyền từ một cá nhân nào đó
sang một cộng đồng kinh doanh lớn hơn. Quá trình chuyển đổi này tăng cường giá trị nhãn
hiệu, mở rộng mức độ ảnh hưởng của nó và kết quả là nó tạo ra của cải vật chất cho người sở
hữu.
Josiah Wedgood thường được coi là cha đẻ của quản lý nhãn hiệu hiện đại Từ những năm
1760, Wedgwood đã đặt tên của ông lên các bình gốm sứ để chỉ rõ nguồn gốc và chất lượng
của chúng. Tuy nhiên, ông này không chỉ dừng lại ở đó. Gần 200 năm trước khi các phương
tiện truyền thông đại chúng được phát minh, Wedgwood đã biết sử dụng chiêu 'tiếp thị truyền
khẩu”, ông dùng các sản phẩm tinh xảo của mình tặng cho Hoàng gia, rồi dùng các hình ảnh
Hoàng gia làm công cụ để tạo ra lối truyền miệng về giá trị của các sản phẩm gốm sứ do ông
sáng tạo từ đó tăng thêm giá trị nhãn hiệu của mình.
Về sau, quản trị nhãn hiệu đã thoát thai từ cách làm của Wedgwood để du hành vào thế kỷ
XX. Với sự phát triển của các phương tiện truyền thông đại chúng, đặc biệt là TV và nền kinh
tế phục hồi với tốc độ tăng trưởng mạnh tại nhiều nước tư bản sau Thế chiến II, một thị trường
quy mô lớn dần dần hình thành. Nhu cầu và tiêu chuẩn sống gia tăng khiến marketing lên ngôi
trong thời kỳ này.
Các Công ty quảng cáo (ad agency) tranh thủ cơ hội này đã phát triển nhanh chóng, tạo ra các
chiến dịch truyền thông để thu hút người tiêu dùng đến với các nhãn hiệu. Lúc đâu các quảng
cáo truyền hình và báo chí rất đơn giản, nhưng đến thời điểm hiện tại, quảng cáo đã phát triển
rất mạnh để trở thành những tác phẩm đích thực. Tại Mỹ, giải bóng chày quốc gia Super Bowl
thu hút số lượng khán giả đông nhất nước không chỉ vì tính hấp dẫn của giải này mà còn một
phần là vì các nhãn hiệu lớn nhất và nổi tiếng nhất ở Mỹ sẽ tung ra các chiến dịch quảng cáo
mới vào dịp Super Bowl để khai thác sự tập trung đông đảo khán giả vào 'thời khắc vàng' này.
Trong khi mô hình an agency đã thống trị hoạt động quản tri nhãn hiệu từ nhiều năm nay và
vẫn đang có ảnh hưởng to lớn tới việc xây dựng nhãn hiệu của các tập đoàn, đang có những
thay đổi lớn lao đặt ra nhiều thử thách cho các an agency. Trong suốt 2 thập kỷ qua, cái gọi là
'lợi thế thị phần lớn' đã đần dần giảm tác dụng. Lợi thế thị phần được hiểu là quan điểm coi
trọng thị phần của các nhãn hiệu sản phẩm hoặc dịch vụ: thị phần càng cao thì càng tốt. Ngày
nay, các doanh nghiệp coi trọng lợi nhuận và tăng trưởng thị giá cổ phiếu hơn, hay nói chung
là giá trị đem lại cho cổ đông và người đầu tư. Những tập đoàn có thị phần lớn nhưng thua lỗ
và không đem lại giá trị tăng thêm đã không còn được ưa chuộng. Thị trường quy mô lớn cũng
dần dần biến mất và thay vào đó, nó bị phân hoá thành nhiều thị trường nhỏ hẹp được định
hình bởi các nhu cầu tập trung hơn và do đó các chiến dịch quảng cáo siêu lớn không còn
thích hợp. Ngành truyền thông đại chúng cũng đang chuyển mình nhanh chóng trước sự xuất
hiện của nhiều phương tiện truyền thông mới có thể tác động vào các phân mảng thị trường
hẹp hơn nhiều.
Thêm vào đó, nền kinh tế dịch vụ hình thành đã làm thay ...