Quyền tiếp cận thông tin khoa học và công nghệ trong hoạt động nghiên cứu khoa học và đổi mới ở Việt Nam
Số trang: 6
Loại file: pdf
Dung lượng: 461.20 KB
Lượt xem: 15
Lượt tải: 0
Xem trước 1 trang đầu tiên của tài liệu này:
Thông tin tài liệu:
Nghiên cứu này, trên cơ sở nhận diện và đánh giá thực trạng pháp luật hiện hành về quyền tiếp cận thông tin khoa học và công nghệ, đã đề xuất một số giải pháp nhằm hoàn thiện khung pháp lý bảo đảm cho việc thực thi quyền tiếp cận thông tin khoa học và công nghệ ở Việt Nam.
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Quyền tiếp cận thông tin khoa học và công nghệ trong hoạt động nghiên cứu khoa học và đổi mới ở Việt Nam Khoa học Xã hội và Nhân văn Quyền tiếp cận thông tin KH&CN trong hoạt động nghiên cứu khoa học và đổi mới ở Việt Nam Lê Tùng Sơn1*, Thạch Thị Hoàng Yến2, Trần Văn Hồng3 1 Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch 2 Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội 2 Trung tâm Văn hóa quận 6, TP Hồ Chí Minh Ngày nhận bài 30/12/2020; ngày chuyển phản biện 8/1/2021; ngày nhận phản biện 9/3/2021; ngày chấp nhận đăng 15/3/2021 Tóm tắt: Thông tin khoa học và công nghệ (KH&CN) có vai trò quan trọng trong xã hội thông tin và nền kinh tế tri thức. Tiếp cận thông tin (TCTT) KH&CN phục vụ cho hoạt động nghiên cứu khoa học trở thành một nhu cầu thiết yếu và là yếu tố tác động đến chất lượng của hoạt động nghiên cứu khoa học và đổi mới sáng tạo, từ đó đặt ra vấn đề thiết lập khung pháp lý trong việc thừa nhận và bảo đảm thực thi quyền TCTT KH&CN. Nghiên cứu này, trên cơ sở nhận diện và đánh giá thực trạng pháp luật hiện hành về quyền TCTT KH&CN, đã đề xuất một số giải pháp nhằm hoàn thiện khung pháp lý bảo đảm cho việc thực thi quyền TCTT KH&CN ở Việt Nam. Từ khóa: chính sách, pháp luật, thông tin KH&CN, tiếp cận thông tin. Chỉ số phân loại: 5.8 Mở đầu nghiên cứu này, thông tin KH&CN được định nghĩa là các dữ liệu, dữ kiện, số liệu, tin tức được tạo ra trong hoạt động khoa Quyền TCTT KH&CN được nhận diện là một trong những quyền cơ bản của công dân, cần được Nhà nước thừa nhận và bảo học, công nghệ và đổi mới [1, 2]. Trong định nghĩa này, hoạt động đảm thực thi. Đặc biệt, trong bối cảnh xã hội thông tin và nền kinh KH&CN được xác định bao gồm: hoạt động nghiên cứu và triển tế tri thức, với vị trí và vai trò quan trọng của KH&CN trong phát khai (R&D), hoạt động phát triển công nghệ gồm: mở rộng công triển kinh tế, xã hội của mỗi quốc gia thì TCTT KH&CN trở thành nghệ, nâng cấp công nghệ, đổi mới công nghệ và hoạt động dịch một nhu cầu thiết yếu đối với hoạt động nghiên cứu khoa học và vụ KH&CN [3]. đổi mới, phục vụ học tập, sản xuất, kinh doanh. Trên bình diện Thuật ngữ nghiên cứu khoa học trong nghiên cứu này được pháp luật Việt Nam, quyền TCTT KH&CN chịu sự điều chỉnh của hiểu là hoạt động khám phá, phát hiện, tìm hiểu bản chất, quy luật nhiều pháp luật khác nhau, trong đó có pháp luật về quyền TCTT của sự vật, hiện tượng tự nhiên, xã hội và tư duy; sáng tạo giải được quy định trong Hiến pháp năm 2013 và cụ thể hóa trong Luật pháp nhằm ứng dụng vào thực tiễn1. TCTT 2016, pháp luật chuyên ngành đó là pháp luật về hoạt động thông tin KH&CN và pháp luật khác có liên quan. Theo OECD, hoạt động đổi mới (cũng có thể hiểu là “đổi mới sáng tạo”) là “việc thực thi một sản phẩm (hàng hóa/dịch vụ) Trong nghiên cứu này, trên cơ sở khái quát hóa những vấn đề cơ bản về quyền TCTT KH&CN của công dân, chúng tôi sử dụng hay một quy trình mới hoặc cải tiến đáng kể, một phương pháp phương pháp nghiên cứu các quy định của pháp luật kết hợp với maketing mới hay một biện pháp mang tính tổ chức trong thực tiễn phân tích đánh giá, tổng hợp, so sánh các nguồn số liệu thống kê hoạt động, trong tổ chức công việc hay trong quan hệ bên ngoài”. thu thập được nhằm nhận diện hiện trạng pháp luật về quyền TCTT Hoạt động đổi mới bao gồm: đổi mới sản phẩm, đổi mới quy trình, KH&CN ở Việt Nam; từ đó đưa ra các giải pháp nhằm hoàn thiện hệ đổi mới tiếp thị và đổi mới quản lý... [4]. thống pháp luật, đáp ứng nhu cầu TCTT KH&CN phục vụ nghiên Tại Việt Nam, Khoản 16 Điều 3 Luật KH&CN 2013 đã định cứu khoa học và đổi mới của tổ chức, cá nhân và doanh nghiệp. nghĩa: “Đổi mới sáng tạo là việc tạo ra, ứng dụng thành tựu, giải Cơ sở khoa học về quyền TCTT KH&CN phục vụ nghiên cứu khoa học pháp kỹ thuật, công nghệ, giải pháp quản lý để nâng cao hiệu quả và đổi mới phát triển kinh tế - xã hội, nâng cao năng suất, chất lượng, giá trị gia tăng của sản phẩm, hàng hóa”. Thông tin KH&CN phục vụ nghiên cứu khoa học và đổi mới Có nhiều định nghĩa khác nhau về thông tin KH&CN, trong 1 Luật KH&CN 2013, Khoản 4 Điều 3. * Tác giả liên hệ: Email: tungson.hlu@gmail.com 63(4) 4.2021 50 Khoa học Xã hội và Nhân văn vụ từ các thiết chế cung cấp thông tin trên nguyên tắc tự do, bình Right to access science and technology đẳng trong tiếp cận [8-11]. information in scientific research Thông qua việc nhận diện khái niệm quyền TCTT, có thể xác định quyền TCTT KH&CN ...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Quyền tiếp cận thông tin khoa học và công nghệ trong hoạt động nghiên cứu khoa học và đổi mới ở Việt Nam Khoa học Xã hội và Nhân văn Quyền tiếp cận thông tin KH&CN trong hoạt động nghiên cứu khoa học và đổi mới ở Việt Nam Lê Tùng Sơn1*, Thạch Thị Hoàng Yến2, Trần Văn Hồng3 1 Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch 2 Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội 2 Trung tâm Văn hóa quận 6, TP Hồ Chí Minh Ngày nhận bài 30/12/2020; ngày chuyển phản biện 8/1/2021; ngày nhận phản biện 9/3/2021; ngày chấp nhận đăng 15/3/2021 Tóm tắt: Thông tin khoa học và công nghệ (KH&CN) có vai trò quan trọng trong xã hội thông tin và nền kinh tế tri thức. Tiếp cận thông tin (TCTT) KH&CN phục vụ cho hoạt động nghiên cứu khoa học trở thành một nhu cầu thiết yếu và là yếu tố tác động đến chất lượng của hoạt động nghiên cứu khoa học và đổi mới sáng tạo, từ đó đặt ra vấn đề thiết lập khung pháp lý trong việc thừa nhận và bảo đảm thực thi quyền TCTT KH&CN. Nghiên cứu này, trên cơ sở nhận diện và đánh giá thực trạng pháp luật hiện hành về quyền TCTT KH&CN, đã đề xuất một số giải pháp nhằm hoàn thiện khung pháp lý bảo đảm cho việc thực thi quyền TCTT KH&CN ở Việt Nam. Từ khóa: chính sách, pháp luật, thông tin KH&CN, tiếp cận thông tin. Chỉ số phân loại: 5.8 Mở đầu nghiên cứu này, thông tin KH&CN được định nghĩa là các dữ liệu, dữ kiện, số liệu, tin tức được tạo ra trong hoạt động khoa Quyền TCTT KH&CN được nhận diện là một trong những quyền cơ bản của công dân, cần được Nhà nước thừa nhận và bảo học, công nghệ và đổi mới [1, 2]. Trong định nghĩa này, hoạt động đảm thực thi. Đặc biệt, trong bối cảnh xã hội thông tin và nền kinh KH&CN được xác định bao gồm: hoạt động nghiên cứu và triển tế tri thức, với vị trí và vai trò quan trọng của KH&CN trong phát khai (R&D), hoạt động phát triển công nghệ gồm: mở rộng công triển kinh tế, xã hội của mỗi quốc gia thì TCTT KH&CN trở thành nghệ, nâng cấp công nghệ, đổi mới công nghệ và hoạt động dịch một nhu cầu thiết yếu đối với hoạt động nghiên cứu khoa học và vụ KH&CN [3]. đổi mới, phục vụ học tập, sản xuất, kinh doanh. Trên bình diện Thuật ngữ nghiên cứu khoa học trong nghiên cứu này được pháp luật Việt Nam, quyền TCTT KH&CN chịu sự điều chỉnh của hiểu là hoạt động khám phá, phát hiện, tìm hiểu bản chất, quy luật nhiều pháp luật khác nhau, trong đó có pháp luật về quyền TCTT của sự vật, hiện tượng tự nhiên, xã hội và tư duy; sáng tạo giải được quy định trong Hiến pháp năm 2013 và cụ thể hóa trong Luật pháp nhằm ứng dụng vào thực tiễn1. TCTT 2016, pháp luật chuyên ngành đó là pháp luật về hoạt động thông tin KH&CN và pháp luật khác có liên quan. Theo OECD, hoạt động đổi mới (cũng có thể hiểu là “đổi mới sáng tạo”) là “việc thực thi một sản phẩm (hàng hóa/dịch vụ) Trong nghiên cứu này, trên cơ sở khái quát hóa những vấn đề cơ bản về quyền TCTT KH&CN của công dân, chúng tôi sử dụng hay một quy trình mới hoặc cải tiến đáng kể, một phương pháp phương pháp nghiên cứu các quy định của pháp luật kết hợp với maketing mới hay một biện pháp mang tính tổ chức trong thực tiễn phân tích đánh giá, tổng hợp, so sánh các nguồn số liệu thống kê hoạt động, trong tổ chức công việc hay trong quan hệ bên ngoài”. thu thập được nhằm nhận diện hiện trạng pháp luật về quyền TCTT Hoạt động đổi mới bao gồm: đổi mới sản phẩm, đổi mới quy trình, KH&CN ở Việt Nam; từ đó đưa ra các giải pháp nhằm hoàn thiện hệ đổi mới tiếp thị và đổi mới quản lý... [4]. thống pháp luật, đáp ứng nhu cầu TCTT KH&CN phục vụ nghiên Tại Việt Nam, Khoản 16 Điều 3 Luật KH&CN 2013 đã định cứu khoa học và đổi mới của tổ chức, cá nhân và doanh nghiệp. nghĩa: “Đổi mới sáng tạo là việc tạo ra, ứng dụng thành tựu, giải Cơ sở khoa học về quyền TCTT KH&CN phục vụ nghiên cứu khoa học pháp kỹ thuật, công nghệ, giải pháp quản lý để nâng cao hiệu quả và đổi mới phát triển kinh tế - xã hội, nâng cao năng suất, chất lượng, giá trị gia tăng của sản phẩm, hàng hóa”. Thông tin KH&CN phục vụ nghiên cứu khoa học và đổi mới Có nhiều định nghĩa khác nhau về thông tin KH&CN, trong 1 Luật KH&CN 2013, Khoản 4 Điều 3. * Tác giả liên hệ: Email: tungson.hlu@gmail.com 63(4) 4.2021 50 Khoa học Xã hội và Nhân văn vụ từ các thiết chế cung cấp thông tin trên nguyên tắc tự do, bình Right to access science and technology đẳng trong tiếp cận [8-11]. information in scientific research Thông qua việc nhận diện khái niệm quyền TCTT, có thể xác định quyền TCTT KH&CN ...
Tìm kiếm theo từ khóa liên quan:
Thông tin khoa học và công nghệ Hoạt động nghiên cứu khoa học Nghiên cứu khoa học ở Việt Nam Bảo đảm quyền nghiên cứu khoa học Hạ tầng công nghệ thông tinGợi ý tài liệu liên quan:
-
8 trang 153 0 0
-
21 trang 105 0 0
-
13 trang 56 0 0
-
10 trang 42 0 0
-
Định mức kinh tế - kỹ thuật đối với hoạt động thông tin khoa học và công nghệ
3 trang 37 0 0 -
Chuyển đổi số trong phát triển tài nguyên thông tin khoa học và công nghệ số
15 trang 36 0 0 -
Hội nghị Khoa học trẻ lần 4 năm 2022 (YSC 2022)
214 trang 35 0 0 -
Thực trạng hoạt động nghiên cứu khoa học của các giảng viên trẻ trường Cao đẳng Công nghệ Thông tin
4 trang 33 0 0 -
Khoa học luận - Một số vấn đề cơ bản (Dành cho hệ cử nhân chính trị): Phần 1
86 trang 32 0 0 -
Tài nguyên giáo dục mở trong hoạt động nghiên cứu khoa học
10 trang 31 0 0