Rau ngót - Vị thuốc tăng sức đề khángRau ngót, trong dân gian gọi theo nhiều tên bồ ngót, bù ngót, và bồ ngọt, bồng ngọt (vì nó ngọt). Tên Hán là hắc hiện thần (có sách ghi hiệu nghiệm như thần) sách Bản thảo gọi rau ngót là đông phong thái. Vì khi gió đông về rau này đâm chồi nảy lộc. Tên khoa học Sauropus androgynus. (L) Meer. Để làm thuốc dùng cây từ 2 năm tuổi trở lên. Theo Đông y, rau ngót tính mát lạnh (nấu chín sẽ bớt lạnh), vị ngọt. Có công năng thanh...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Rau ngót - Vị thuốc tăng sức đề kháng Rau ngót - Vị thuốc tăng sức đề khángRau ngót, trong dân gian gọi theo nhiều tên bồ ngót, bù ngót, và bồ ngọt, bồng ngọt (vìnó ngọt). Tên Hán là hắc hiện thần (có sách ghi hiệu nghiệm như thần) sách Bản thảo gọirau ngót là đông phong thái. Vì khi gió đông về rau này đâm chồi nảy lộc. Tên khoa họcSauropus androgynus. (L) Meer. Để làm thuốc dùng cây từ 2 năm tuổi trở lên.Theo Đông y, rau ngót tính mát lạnh (nấu chín sẽ bớt lạnh), vị ngọt. Có công năng thanhnhiệt, giải độc, lợi tiểu, tăng tiết nước bọt, hoạt huyết hóa ứ, bổ huyết, cầm huyết, nhuậntràng, sát khuẩn, tiêu viêm, sinh cơ. Rau ngót là thang thuốc “công bổ kiêm thi” (vừacông vừa bổ) “vừa phù chính vừa khu tà” (nâng đỡ chính khí, trừ tà khí) vừa tăng sức đềkháng của cơ thể, vừa chống lại nguyên nhân bệnh từ bên ngoài xâm hại cơ thể.Rau ngót dùng trong các chứng bệnh sau:Trẻ sơ sinh tưa lưỡi, lưỡi trắng rộp, bỏ bú: Nước ép rau ngót tươi bôi lên lưỡi tổnthương. Có thể hòa mật ong.Sót rau sau đẻ, nạo hút thai: cho sản phụ uống 1 bát nước rau ngót tươiBồi dưỡng sau đẻ: Rau ngót nấu canh với thịt lợn nạc hoặc giò sống. Có nơi hay nấucanh rau ngót với trứng tôm, trứng cáy, cá rô, cá quả... nhưng với thịt lợn nạc thì yên tâmhơn đối với sức khỏe của sản phụ đang cho con bú.Canh giải nhiệt mùa hè: Rau ngót nấu canh với hến, mát và ngọt đậm đà. Phối hợp nàylạnh nên cho thêm lát gừng hoặc nên kiêng với người hư hàn.Chữa cốt thống (nhức trong xương, không phải sưng đau khớp): nấu rau ngót với xươnglợn (không dùng xương sườn lợn theo ý người xưa có lẽ phải có ống tủy...).Trẻ bị âm hư ra mồ hôi trộm, người luôn nóng: Rau ngót 30g, rau bầu đất 30g, nấu vớibầu dục lợn.Bàn chân sưng nhức: Lá rau ngót giã với nước muối đắp.Ống chân (cẳng chân) bị lở dai dẳng: Rau ngót 2 phần, vôi đá 1 phần giã nhuyễn đắpngày 1 lần.Chảy máu cam: Giã rau ngót thêm nước, ít đường để uống, bã gói vào vải đặt lên mũi.Giải độc rượu, rượu có thuốc trừ sâu, rượu ngâm mã tiền, dị ứng cá biển: Uống nước raungót sống.Theo một số nghiên cứu về thành phần hóa học của rau ngót cho thấy: Trong 100g rau có6,5g đạm, 0,08g chất béo, 9g đường, 503mg kali, 15,7mg sắt, 13,5mg mangan, 0,45mgđồng, 23.300UI betacaroten, 85mg sinh tố C, 0,033mg B1, 0,88mg B2. Qua đây thấy raungót (so với các rau lá khác) nhiều đạm, chất sắt, mangan và tiền sinh tố A. Rau ngótcũng khá nhiều magiê, đồng, kali, sinh tố C và PP. Về axit amin thì trong 100g rau ngótcó 0,34 threonin, 0,25g phenylalanin, 0,24g leucin, 0,23g isoleucin, 0,16g lysin, 0,13gmethionin, 0,05g tryptophan. Với chất lượng đạm thực vật cao như vậy nên rau ngótđược khuyên dùng thay thế đạm động vật để hạn chế những rối loạn chuyển hóa canxigây loãng xương và sỏi thận. Rau ngót được khuyên dùng cho người giảm cân và ngườibị bệnh đường huyết cao.Ngoài ra rau ngót là một trong giới thực vật hiếm có chứa vitamin K. Theo American ofclinical nutri tion 1/1999 và tài liệu của Trường đại học Berkeley 7/1999 cho biết ăn raucó vitamin K thiên nhiên làm giảm nguy cơ gãy xương ở người già, do nó bảo vệ cấu trúckhung sụn chống lại sự bào mòn... Từ năm 1973 Pareira và Ifafar phát hiện trong rau ngótnhiều papaverin là chất từ trước chỉ tìm thấy trong cây thuốc phiện. Trong điều trị dùngpapaverin để giãn cơ trơn của mạch máu làm giảm cơn đau phủ tạng, hạ huyết áp và gâycương cứng dương vật. Cứ 100g rau ngót có 580mg papaverin cho nên nếu ăn quá nhiềurau ngót trong một bữa cơm thì về lý thuyết có thể gặp các phản ứng phụ do papaveringây ra (buồn ngủ, chóng mặt, táo bón...).