Gồm hai phần: 1. Dẫn luận của người giới thiệu. 2. Bản dịch nguyên văn Sadanga.
1. Dẫn luận của người giới thiệu:
Trước khi tiếp xúc rộng rãi với phương Tây, phương Đông đã có khá nhiều hệ thống đúc kết tư tưởng nghệ thuật, so với phương Tây không thể nói là kém.
.Theo nhận xét chung thì các hệ thống đúc kết của phương Đông thường mang dạng đạo lý: khuyên răn đường chứng ngộ. Trái lại, các hệ thống của phương Tây lại mang dạng nguyên tắc khoa học: tính toán, đo lường.
...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Sadanga hay sáu chuẩn của nền hội họa Ấn Độ
Sadanga hay sáu chuẩn của hội
họa Ấn Độ
Gồm hai phần:
1. Dẫn luận của người giới thiệu.
2. Bản dịch nguyên văn Sadanga.
------------------
1. Dẫn luận của người giới thiệu:
Trước khi tiếp xúc rộng rãi với phương Tây, phương Đông đã có khá
nhiều hệ thống đúc kết tư tưởng nghệ thuật, so với phương Tây không
thể nói là kém.
Theo nhận xét chung thì các hệ thống đúc kết của phương Đông thường
mang dạng đạo lý: khuyên răn đường chứng ngộ. Trái lại, các hệ thống
của phương Tây lại mang dạng nguyên tắc khoa học: tính toán, đo
lường.
Riêng về phương Đông, được thế giới nhắc nhở, tìm hiểu nhiều nhất,
cho tới nay, là hai hệ thống đã đạt tư cách tổng hợp: một, của Trung
Hoa, vào thế kỷ V; và một, của Ấn Độ, có thể vào khoảng thời gian
trước đó. Hai hệ thống này có những điểm giống nhau, nhưng cũng có
những điểm khác nhau.
Hệ Trung Hoa có tên, tuổi, lý lịch hẳn hoi. Đó là Lục pháp luận, do Tạ
Hách (họa sĩ vẽ chân dung nổi tiếng thời Lục triều) tổng kết và công bố
trong cuốn Cổ họa phẩm lục của chính ông.
Trong khi đó thì hệ Ấn Độ - Sadanga, hay sáu chuẩn của hội họa Ấn
Độ - đã chịu đựng những thất bát nhất định. Người tổng kết hệ
Sadanga là ai, sống vào thời nào? Không còn ai biết. Cả thế giới, mà
ngay người Ấn Độ cũng vậy, chỉ mới tiếp xúc kỹ càng hơn với
Sadanga vào khoảng những năm 10 của thế kỷ này, qua công trình
thuyết minh của Abanindranath Tagore, một họa sĩ Ấn Độ đã từng có
lúc giảng dạy mỹ học tại Trường mỹ thuật Calcuta.
Bản thuyết minh Sadanga đó của A. Tagore được viết bằng tiếng Anh,
và xuất hiện lần đầu tiên trên tờ Modern Review ở Calcuta. Đến năm
1922, lại thêm bản dịch của bà Andrée Karpelès sang tiếng Pháp. Trước
khi có hai văn bản nói trên, chưa một cuốn sách nào, kể cả sách Ấn Độ
lẫn sách Âu nhắc tới sáu quy tắc của hội họa Ấn Độ cả.
Sản thân Tagore người truyền bá Sadanga cũng không rõ lại lịch chính
xác của Sadanga. Và mọi người, ngày nay đành bằng lòng với sự mơ
hồ đó. Mở đầu công trình duy nhất giới thiệu Sadanga, Tagore chỉ nói:
Trong bản giải thiên Kama Sutra của Vatsyayana (chương 3, quyểt 1),
Jashodara có nói: quy tắc của hội hoạ Ấn Độ gồm có sáu.
Vatsyayana là một hiền triết Ấn Độ thời cổ. Những văn bản cổ hơn, nơi
ông đã khai thác nhiều tài liệu cho thiên Kamasutra của mình, thì ngày
nay không còn tìm đâu ra nữa. Và Jashodara khi nhắc tới Sadanga,
cũng không hề cho biết rằng ông đã tìm thấy sáu quy tắc hội họa đó ở
sách nào.
Đã trên nửa thế kỷ rồi, phương Tây ráo riết đi tìm những đặc tính của
phương Đông. Bởi vậy, trên diễn đàn văn hóa Tây phương, Sadanga và
Lục pháp luận được sách báo, và các cuộc hội nghị khoa học nhắc nhở
đến luôn.
Trong cái phương Đông nói chung ấy, còn phải hiểu Ấn Độ riêng và
Trung Hoa riêng. Đó là chưa nói đến Đông Nam Á (lục địa và hải đảo),
khu vực nằm giữa hai nền văn minh ấn và Trung, nơi từng xuất hiện cả
một tấm tranh gián sắc những nền văn minh độc đáo, vốn phi ấn và phi
Hoa, ít nhất cũng trong buổi mở đầu của chúng.
Riêng về những khác biệt giữa tinh thần của hai nền văn minh lớn Ấn
Độ và Trung Hoa, chúng ta, những người yêu nghệ thuật tạo hình, có
thể tìm thấy một ý niệm đầu tiên, qua đối chiếu, so sánh Sadanga với
Lục pháp luận.
Thực ra, khẳng định khác biệt là vô tình đã cảm thấy những điểm đồng
nhất nào đó. Quả vậy, xung quanh việc đúc kết và tìm hiểu hai hệ thống
thẩm mỹ của Ấn Độ và Trung Hoa thời cổ, đã xảy ra một cuộc tranh
luận, nếu có thể dùng chữ ấy, không những trong trường hợp những
người đồng đại, mà cả trong trường hợp những người sống cách nhau
bao nhiêu là thế kỷ.
Tạ Hách, trong tác phẩm của mình, từng tố giác rằng Sadanga học
theo Lục pháp luận. Ngày nay, những người bênh vực ý kiến trên đã
trình bày cả một tiểu sử khá mạch lạc và hùng hồn của Lục pháp luận.
Theo lời biện minh rất có lý của họ, thì tiền thân của hệ thống thẩm mỹ
Trung Hoa đã được ủ sẵn ít ra là hàng trăm năm trong các nước trước
tác của hoạ sĩ Cổ Khải Chi, như Hoa Luận, Bài tán các bức họa kiệt
tác thời Nguỵ Tấn, Bài ký về hội họa trên núi Vân Đài; của Tông
Bính, như Bài tựa về hoạ sơn thuỷ; của Tường Vi, trong Ca ngợi hội
họa, v v...
Ngược lại, cũng nhiều tên tuổi trong Ấn Độ học, và ít ra là nghệ thuật
học Ấn Độ và Trung Hoa, lại cho rằng Lục pháp luận được truyền từ
Ấn Độ sang. Riêng Tagore cũng phải nhận định như vậy. Ông viết:
phải nói rằng những quy tắc của thẩm mỹ Ấn Độ đã vọng dội vào Lục
pháp luận của hội hoạ Trung Hoa. Khẳng định như vậy, sau khi đã
nhận xét rằng bố cục của Lục pháp luận có phần rời rạc, không thể so
với trật tự hoàn thiện của Sadanga được. Chẳng những thế, vẫn theo
Tagore, hệ thống Trung Hoa còn đề ra một số quy tắc tưởng chừng là
cố đặt ra cho đủ con số sáu mà thôi, có thể đánh giá là thừa, chẳng hạn
quy tắc Chép theo mẫu kiểu cổ xưa.
Ngay giờ đây, ta cũng có thể lướt qua các chủ đề và sự sắp xếp của hai
hệ. Dĩ nhiên, bằng cách này, ta không định vội vàng suy diễn, gán ghép
một điều g ...